Thursday, November 28, 2013

Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót (14)


Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins

(The God Delusion)






Chương 5 (tiếp theo)

Đã chín mùi tâm lý sẵn cho tôn giáo


Ý tưởng về những sản-phẩm-phụ tâm lý lớn dậy một cách tự nhiên từ lĩnh vực quan trọng và đang phát triển của khoa tâm lý học tiến hóa [1]. Những nhà tâm lý học tiến hóa nêu ý kiến rằng, cũng giống đúng như mắt là cơ quan đã tiến hóa để nhìn, và cánh là một cơ quan đã tiến hóa để bay, như thế bộ óc là một sưu tập của những cơ năng (hoặc “những mô-đun”) để đối ứng với một tập hợp của những nhu cầu về sự nhận-chuyển-giải những dữ liệu thông tin chuyên biệt. Có một mô-đun để đối ứng với liên hệ họ hàng, một mô-đun để đối ứng với những đổi chác qua lại, một mô-đun để đối ứng với sự đồng cảm cùng người khác, và vân vân. Tôn giáo có thể được xem như một sản phẩm phụ của sự sai hỏng, lạc đích, ngoài dự định [2] của một vài trong số những mô-đun này, lấy thí dụ, những mô-đun để hình thành những lý thuyết về những não thức khác, để tạo dựng những liên minh, và để đối xử phân biệt có lợi cho thành viên trong-nhóm và chống lại người lạ. Bất kỳ một nào trong những mô-đun này có thể được dùng như tương đương trong con người với sự định hướng bay trong con bướm đêm, tinh tế nhưng mong manh, dễ bị tổn thương, gây kết quả ngoài dự định, theo cùng một loại của đường lối như tôi đã đưa lên ý kiến về sự cả tin của trẻ em. Nhà tâm lý học Paul Bloom, một người ủng hộ khác của quan điểm “tôn giáo là một sản phẩm phụ”, trỏ ra rằng trẻ em có một khuynh hướng hướng tự nhiên, hướng tới một thuyết nhị nguyên về não thức. Với ông, tôn giáo là một sản phẩm phụ của quan điểm nhị nguyên trong bản năng, thuộc loại giống như thế. Loài người chúng ta, ông đưa ý kiến, và đặc biệt là trẻ em, đều tự nhiên là những người có quan điểm nhị nguyên bẩm sinh.

Một người theo quan điểm nhị nguyên thừa nhận có một sự khác biệt cơ bản giữa vật chất và ý thức tinh thần. Một người theo quan điểm nhất nguyên, ngược lại, tin rằng ý thức tinh thần là một sự biểu hiện của vật chất – của thể chất vật lý trong một bộ óc, hoặc có lẽ một cômputơ – và không thể tồn tại tách biệt khỏi vật chất. Một người nhị nguyên tin rằng ý thức tinh thần [3] là một loại nào đó của linh hồn tách-biệt-với-thể-xác, nhưng cư ngụ trong thể xác, và do đó có thể hình dung được rằng nó có thể rời cơ thể, tồn tại ở một nơi nào khác. Những người nhị nguyên sẵn sàng giải thích những bệnh tâm thần như là “bị ma quỷ chiếm hữu” (bệnh quỉ ám), những ma quỷ đó là những hồn ma mà trú ngụ của chúng trong cơ thể là tạm thời, như chúng có thể bị đánh “bật thoát ra ngoài” [4]. Những người nhị nguyên nhân cách hóa những đối tượng vật lý vô tri giác ở mỗi cơ hội mơ hồ, mong manh nhất, nhìn thấy những linh hồn và ma quỷ ngay cả trong những thác nước và mây trời [5].

Wednesday, November 20, 2013

Plato – Phaedo


 Phaedo
(Về Hồn-người)

(Φαίδων, Phaidōn)
Plato (Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)








Dẫn nhập của người biên tập bản tiếng Anh

Phaedo[1] được những học giả cổ HyLa biết dưới nhan đề mô tả nội dung hơn, Về Hồn-người, là một màn kịch về những giờ phút cuối cùng, và cái chết của Socrates, trong nhà tù tại Athens. Trên đường trở về nhà ở Elis, một trong những học trò gần gũi của ông, Phaedo, người đã ở bên Socrates khi đó, tạm dừng xe ở Phlius, một thành phố trong bán đảo Peloponnese. Tại đây, Phaedo thuật tất cả lại cho một nhóm người theo học phái Pythagoras đã định cư ở đây sau khi họ bị trục xuất khỏi ​​miền Nam nước Ý. Sự liên hệ với nhóm Pythagoras thêm rõ ràng hơn trong chính đàm thoại này, vì Simmias và Cebes, hai người theo và bàn luận với Socrates, – từ Thebes, một thành phố khác, nơi những thành viên của nhóm huynh đệ bị trục xuất đã định cư, đều là cộng sự của Philolaus, người đứng đầu nhóm Pythagoras ở đó. Những người theo học phái Pythagoras được ghi nhận vì tin tưởng của họ vào sự bất tử của hồn người (psuchē), và sự tái sinh hay đúng hơn sự đầu thai (reincarnation) của nó trong dạng người hoặc động vật, và với quan tâm như hệ quả của hai điều trên là giữ hồn người cho tinh khiết, bằng cách tránh đừng để nó bị thân xác làm nhơ bẩn, như thế để lấy được một đời sau tốt nhất có thể có được. Socrates dệt tất cả những chủ đề này vào thảo luận của ông về sự bất tử của hồn người.

Saturday, November 16, 2013

Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót (13)



Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins

(The God Delusion)




Chương 5
Những gốc rễ của tôn giáo

Với một nhà tâm lý học theo thuyết tiến hóa, trước những quá đáng rườm rà phổ quát của những nghi lễ tôn giáo, với tổn hại của chúng về thì giờ, nguồn lực, đau đớn và thiếu hụt, làm người ta nên nghĩ rằng tôn giáo, cũng sinh động sặc sỡ như cái trôn của con khỉ đỏ đít, có thể là do thích nghi mà có. (Marek Kohn).


Cấp thiết nghiêm trọng theo Darwin


Mọi người đều có lý thuyết yêu chuộng riêng của họ cho câu hỏi tôn giáo từ đâu đến, và tại sao tất cả những nền văn hóa loài người đều có tôn giáo. Nó đem lại sự an ủi và khuây khỏa dễ chịu. Nó hun đúc sự kết đoàn trong những nhóm. Nó đáp ứng khao khát của chúng ta muốn hiểu lý do tại sao chúng ta hiện hữu. Tôi sẽ đi đến với những giải thích thuộc loại này trong chốc lát, nhưng tôi muốn bắt đầu với một câu hỏi trước, một câu hỏi có ưu tiên vì những lý do chúng ta sẽ thấy: một câu hỏi về chọn lọc tự nhiên theo học thuyết Darwin.

Biết rằng chúng ta là những sản phẩm của tiến hóa theo Darwin, chúng ta nên hỏi áp lực, hoặc những áp lực nào, chọn lọc tự nhiên ban đầu tạo ra, đã nghiêng thuận lợi cho sự thúc đẩy đến tôn giáo. Câu hỏi dành được sự cấp thiết từ những suy xét theo tiêu chuẩn Darwin về sự quản lý tiện tặn những nguồn lực. Tôn giáo thì rất tốn kém, rất lãng phí xa xỉ, và lựa chọn theo Darwin thường quen nhắm vào sự lãng phí, lấy nó làm mục tiêu để loại trừ. Thiên nhiên là một nhà kế toán hà tiện, bất đắc dĩ nếu phải tiêu thì dè xẻn từng xu, nhìn đồng hồ, trừng phạt sự lãng phí cỏn con nhất. Không ngơi và không ngừng, như Darwin giải thích, “chọn lọc tự nhiên là rà soát hàng giờ và hàng ngày, trên toàn thế giới, mọi biến thái, thậm chí chỉ một li một tí; từ chối những gì là xấu, gìn giữ và cộng lại tất cả những gì là tốt, âm thầm và vô cảm, bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào nếu đem cho cơ hội, làm việc vào sự cải tiến của từng tổ chức hữu cơ của hữu thể”. Nếu một con thú sống trong hoang dã thường xuyên thực hiện một vài hoạt động vô dụng, lựa chọn tự nhiên sẽ nghiêng thuận lợi sang những cá nhân đối thủ, thay vào đó, là kẻ dành thời giờ và năng lực, cho sự sống còn và tái tạo. Thiên nhiên không thể kham nổi trò phù phiếm lấy sự phô trương khôn ngoan làm vui. Chủ nghĩa ích nhiều lợi đông mới đáng khen [1], tàn nhẫn là quân bài thắng trọn ván, ngay cả khi nếu nó không luôn luôn có vẻ như vậy.

Friday, November 8, 2013

Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót (12)




Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins
(The God Delusion)




Chương 4
Tại sao hầu như chắc chắn là không có Gót  (tiếp theo)


Một tạm nghỉ xen giữa tại trường Cambridge

Trong một hội thảo gần đây về khoa học và tôn giáo ở Cambridge, nơi tôi đưa ra lập luận tôi đang gọi ở đây là luận chứng 747 Sau cùng, tôi đã đương đầu với, để nói ít nhất, những gì đã  là một thất bại thân hữu trong việc đạt đến một hội họp của những não thức về vấn đề sự đơn giản của Gót. Kinh nghiệm đã là một “hé mở sáng mắt”, và tôi mong chia xẻ nó với bạn đọc.

Đầu tiên, tôi phải thú nhận (đó có lẽ là một từ đúng) rằng cuộc hội thảo đã được Quỹ Templeton tài trợ. Những người đến nghe đã được chọn lựa cẩn thận từng người, từ một nhóm nhỏ gồm những nhà báo khoa học ở Anh và Mỹ. Tôi đã là tiêu biểu cho người không-tin-có-gót trong số mười tám người được mời đến nói chuyện. Một trong những nhà báo, John Horgan, kể lại rằng mỗi người trong số họ đã được trả món tiền kếch sù 15.000 $ để tham dự hội thảo, chưa kể tất cả những chi phí khác. Điều này làm tôi ngạc nhiên. Kinh nghiệm lâu dài của tôi về hội thảo của giới học giả đã không có trường hợp nào trong đó  những người nghe (như ngược với những người nói chuyện) lại được trả tiền để đến nghe. Nếu như tôi đã biết, lập tức những nghi ngờ của tôi đã nổi lên rồi. Có phải Templeton đã dùng tiền của mình để mua chuộc những nhà báo khoa học, và xoay chuyển tính trung thực khoa học của họ?  Sau đó, John Horgan cũng đã tự hỏi một điều tương tự, và đã viết một bài báo về toàn bộ kinh nghiệm của ông.[1]  Trong đó, ông đã tiết lộ, làm tôi thất vọng, rằng việc quảng cáo có tôi tham dự như một diễn giả, đã giúp ông và những người khác gác qua nghi ngờ của họ: 

Nhà sinh vật học người Anh Richard Dawkins, sự tham dự của ông trong cuộc họp đã giúp thuyết phục tôi và những đồng nghiệp khác về tính chính đáng của nó, là diễn giả duy nhất đã tố cáo  những tin tưởng tôn giáo như là không tương đồng với khoa học, bất hợp lý, và gây hại. Những diễn giả khác – ba người theo thuyết không thể biết, một người Dothái, một người đê-ít, và 12 người Kitô (một triết gia Muslim phút cuối đã không tham dự) – đã đem cho một góc nhìn cong lệch rõ ràng nghiêng sang thuận lợi cho tôn giáo và  đạo Kitô. 

Saturday, November 2, 2013

Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót (11)

Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins

(The God Delusion)







Chương 4
Tại sao hầu như chắc chắn là không có Gót  (tiếp theo)

Nguyên lý loài người: phiên bản vũ trụ


Chúng ta không chỉ sống trên một hành tinh thân thiện, nhưng cũng trong một vũ trụ thân thiện. Nó dẫn đến từ thực tại về hiện hữu của chúng ta rằng những định luật vật lý phải là đủ thân thiện để cho phép sự sống phát sinh. Khi chúng ta nhìn bầu trời đêm, thấy những sao sáng, đó không phải là ngẫu nhiên, vì những vì sao là một điều kiện tiên quyết cần thiết cho sự hiện hữu của hầu hết những nguyên tố hóa học, và nếu không có hóa học, đã không thể có sự sống. Những nhà vật lý đã tính toán rằng, nếu những qui luật và những hằng số vật lý đã khác biệt ngay cả dù chỉ một tí, vũ trụ đã phát triển trong một cách mà sự sống sẽ không thể nào có thể có được. Những nhà vật lý khác nhau đã trình bày những cách khác nhau, nhưng kết luận luôn luôn giống nhau. Martin Rees, trong Just Six Numbers [1], liệt kê sáu hằng số cơ bản, đó là những con số mà người ta tin rằng ở chỗ nào cũng vẫn có trị giá như nhau trong toàn vũ trụ. Mỗi trong sáu con số này thì được điều chỉnh khéo léo, theo ý nghĩa là, nếu nó đã chỉ hơi khác đi một chút, vũ trụ sẽ khác biệt toàn diện, và giả định rằng cũng sẽ không thân thiện với sự sống .[2]