Friday, December 20, 2013

Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót (16)


Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins

(The God Delusion)
(tiếp theo ...)









Chương 5 (tiếp theo)

Những Giáo phái thờ Hàng hóa 

Trong The Life of Brian, một trong những điều nhóm Monty Python đã đúng là một giáo phái mới có thể bắt đầu cực kỳ nhanh chóng [1]. Nó có thể mọc lên hầu như qua đêm và sau đó thành kết hợp vào trong một văn hóa, nơi nó đóng một vai trò chi phối ồn ào. “Những Giáo phái thờ hàng hóa chở bằng tàu[2], ở vùng quần đảo Melanesia của Thái Bình Dương và của New Guinea, cung cấp những thí dụ nổi tiếng nhất từ đời sống thực. Toàn bộ lịch sử của một vài những giáo phái này, từ khởi đầu đến tàn cuộc, được gói trọn vẹn trong ký ức sống. Không giống như giáo phái của Jesus [3], trong đó nguồn gốc của nó thì không có chứng cớ xác nhận đáng tin cậy, chúng ta có thể nhìn thấy toàn bộ quá trình của những sự kiện đặt ra trước mắt chúng ta (và ngay cả ở đây, như chúng ta sẽ thấy, giờ  đây một vài chi tiết đã bị mất). Nó là hết sức lý thú hấp dẫn để đoán rằng giáo phái Kitô hầu như chắc chắn đã bắt đầu trong nhiều cách thức rất giống như thế, và đã khởi đầu lan truyền với cùng một tốc độ nhanh như thế.

Nguồn tài liệu chính tôi dựa vào, về những giáo phái thờ phụng hàng hóa chở bằng tàu, là tập sách Quest in Paradise của David Attenborough, mà ông rất tử tế tặng tôi làm quà [4]. Mẫu thức là một như nhau cho tất cả chúng, từ những giáo phái sớm nhất trong thế kỷ XIX, đến những giáo phái nổi tiếng hơn, đã lớn dậy sau Thế chiến thứ Hai. Dường như trong mọi trường hợp, những dân đảo đều đã hoàn toàn phủ phục trước những sự vật sở hữu kỳ diệu của những người da trắng di cư đến những hải đảo của họ, gồm những nhà hành chính, binh lính, và truyền giáo. Họ có lẽ đã là nạn nhân của luật thứ ba của (Arthur C.) Clarke, mà tôi đã trích dẫn trong Chương 2: “Bất kỳ một kỹ thuật nào tới mức tiến bộ đầy đủ là không thể phân biệt được với pháp thuật kỳ diệu”.

Những dân đảo ghi nhận rằng những dân da trắng là người được thích thú thụ hưởng những kỳ diệu này đã không bao giờ tự làm chúng cho bản thân họ. Khi những phẩm vật cần sửa chữa, chúng đã được gửi đi, và những phẩm vật mới tiếp tục được gửi đến như “hàng hóa” trong những chuyến tàu thủy, sau đó, những tàu bay. Không một người da trắng nào đã từng thấy có làm, hoặc sửa chữa bất cứ gì, cũng chẳng, quả thực, thấy họ làm bất cứ điều gì có thể được nhận xem như công việc hữu ích thuộc bất kỳ loại nào (ngồi sau một cái bàn, xáo trộn giấy tờ đã rõ ràng là một vài loại nào đó của sự hết lòng trung thành mộ đạo). Chứng cớ rành rành như thế, nên sau đó, những “hàng hóa đến theo chuyến tàu” phải có nguồn gốc siêu nhiên. Như nếu để chứng thực cho điều này, những người da trắng đã làm những việc mà nhất định chỉ có thể là những nghi lễ tôn giáo nghiêm trọng:

Họ dựng những cột buồm cao với nhiều dây buộc vào chúng, họ ngồi lắng nghe những hộp nhỏ có ánh sáng rực lên nhưng không có lửa, và phát ra tiếng ồn tò mò lạ lẫm và những tiếng nói như bị bóp nghẹt, họ thuyết phục người dân địa phương ăn mặc đẹp đẽ trong những bộ quần áo giống hệt nhau, và đi diễn hành, hết lên lại xuống – và điều đó là hầu như không thể nào đưa ra một nghề nghiệp nào mà vô công rồi nghề hơn, vô dụng hơn thế nữa. Và sau đó người dân bản xứ trên đảo nhận ra rằng hắn đã va vào đúng câu trả lời cho sự bí ẩn. Đó là những hành động không thể hiểu được này chính là những nghi lễ người da trắng đã dùng để thuyết phục những vị gót gửi hàng hóa đến. Nếu người bản xứ muốn có hàng hóa, vậy sau đó, hắn cũng phải làm những điều này.

Điều nổi bật đáng chú ý là những “giáo phái thờ hàng” tương tự này mọc lên một cách độc lập trên những hải đảo ngăn cách rộng rãi cả về địa lý lẫn văn hóa. David Attenborough cho chúng ta biết

Những nhà nhân loại học đã ghi nhận hai vụ nổi dậy riêng biệt trong New Caledonia, bốn trong quần đảo Solomon, bốn ở Fiji, bảy ở New Hebrides, và hơn năm mươi ở New Guinea, hầu hết trong số chúng là khá độc lập và không có kết nối nào với nhau. Phần lớn những tôn giáo này cho rằng một vị cứu thế đặc biệt sẽ đem hàng hóa đến, khi ngày tận thế xảy ra.

Sự bừng nở độc lập của rất nhiều những giáo phái độc lập nhưng tương tự, nêu lên cho thấy một vài thuộc tính thống nhất có chung trong tâm lý tổng quát con người.

Một giáo phái nổi tiếng trên đảo Tanna ở New Hebrides (Sau 1980, là Vanuatu) hiện vẫn còn. Nó xoay quanh trung tâm là một nhân vật cứu thế, có tên John Frum. Tài liệu tham khảo về John Frum trong hồ sơ chính thức của chính phủ đi ngược trở lại chỉ xưa đến 1940, nhưng ngay cả với một huyền thoại quá gần chúng ta như thế, không biết chắc chắn liệu ông có bao giờ từng hiện hữu như một con người thực sự hay không [5]. Một truyền thuyết mô tả ông như một người nhỏ với một giọng the thé và tóc bạc trắng, mặc một áo khoác đơm những cúc sáng loáng. Ông đã có những lời tiên tri kỳ lạ, và ông đã cùng mọi cách khác thường để chuyển người ta chống lại những đoàn truyền giáo. Cuối cùng ông trở về với tổ tiên, sau khi hứa hẹn một “xuống trần” chiến thắng thứ hai sắp tới, mang tràn đầy hàng hóa phong phú. Viễn tượng tận thế của ông gồm một đại biến động: núi non sẽ bị san phẳng và những thung lũng sẽ dâng đầy; [6] người già sẽ lấy lại tuổi trẻ của họ, và bệnh tật sẽ biến mất; những người da trắng sẽ bị trục xuất khỏi đảo, không bao giờ trở lại; và hàng hóa sẽ đến trong số lượng lớn để mọi người sẽ có thật nhiều như người ta muốn”.

Đáng lo ngại nhất đối với chính phủ, John Frum cũng tiên tri rằng, trong lần xuống thế thứ nhì của mình, ông sẽ mang đến một tiền đúc mới, đóng dấu với hình một cây dừa. Người dân do đó phải loại bỏ tất cả tiền họ có từ người da trắng. Trong năm 1941, điều này đã dẫn đến một thời tiêu tiền vô độ như điên cuồng, dân chúng đã ngừng làm việc, và nền kinh tế của đảo đã bị hư hại nặng nề.  Giới hành pháp quản lý thuộc địa đã bắt giữ những người cầm đầu, nhưng không gì họ đã có thể làm để giết chết giáo phái, và những nhà thờ và trường học của những đoàn truyền giáo trở nên hoang vắng. [7]

Một ít lâu sau, lớn dậy một học thuyết mới, rằng John Frum là vua của nước Mỹ. Xảy ra  trong thực tế, như linh thiêng có dự phần, quân đội Mỹ quả đã đến Tân Hebrides vào khoảng thời gian này, và tự hỏi trước những kỳ diệu, họ đã gồm những người da đen là những người không nghèo như những dân đảo, nhưng

Cũng được phú cho giàu có với hàng hóa như những người lính da trắng. Phấn khích cuồng dại đã tràn ngập Tanna. Ngày đã báo trước là Ngày tận thế sắp xảy ra đến nơi. Dường như mọi người đều chuẩn bị cho sự xuất hiện của John Frum. Một trong những nhà lãnh đạo nói rằng John Frum sẽ đến từ nước Mỹ bằng tàu bay, và hàng trăm người bắt đầu khai quang những bụi cây ở trung tâm của đảo này, để tàu bay có thể có một sân bay để đáp.

Sân bay có một tháp kiểm soát không lưu bằng tre với những “người kiểm soát không lưu” đeo ống nghe trùm kín tai, làm giả bằng gỗ. Có những máy bay giả đặt sẵn trên “đường bay” để hoạt động như những mồi-giả để thu hút vật-thật,  được thiết kế để nhử máy bay John Frum đáp xuống.

Trong những năm 1950, David Attenborough, lúc ấy còn trẻ đi thuyền đến đảo Tanna, với Geoffrey Mulligan, một nhà quay phim, để điều tra sự sùng bái John Frum. Họ tìm thấy nhiều bằng chứng của tôn giáo này, và cuối cùng được giới thiệu với thày tu cao cấp của nó, một người có tên gọi là Nambas.

Nambas thân mật gọi vị “cứu thế” của ông là John, và tuyên bố nói chuyện với ông ta, thường xuyên bằng “radio”. Radio này (“radio thuộc về John”) gồm một bà già với một dây điện quấn quanh eo lưng bà, là người sẽ rơi vào một “trạng thái xuất thần” và nói lảm nhảm hôn mê, không đâu vào đâu, được Nambas diễn giải như là những lời của John Frum. Nambas tuyên bố đã biết trước là Attenborough sẽ đến để thăm mình, vì John Frum đã nói với ông trên “radio”. Attenborough xin được xem chiếc “radio”, nhưng đã bị từ chối (dễ hiểu!). Ông đổi chủ đề câu chuyện, và hỏi có phải Nambas đã nhìn thấy John Frum hay không:

Nambas gật đầu mạnh mẽ. ”Mình nhìn thấy ông ấy khối lần ra đấy!” “Thế ông ta trông giống như thế nào?” Nambas búng ngón tay trở vào tôi. ”Y trông giống như bạn”, “Y có khuôn mặt trắng”. “Y cao người; Y sống dài ở Nam Mỹ.”

Chi tiết này mâu thuẫn với truyền thuyết nói trên là John Frum là một người thấp. Nhưng như thế là cách thức những huyền thoại đã tiến hóa.

Người ta tin rằng ngày John Frum trở lại sẽ là ngày 15 tháng Hai, nhưng năm nào thì chưa biết rõ. Hàng năm, cứ vào ngày 15 tháng Hai, những tín đồ của ông tụ họp trong một buổi lễ tôn giáo để chờ đợi chào đón ông. Cho đến nay ông vẫn đã không trở về, nhưng họ không thất vọng. David Attenborough nói với một tín đồ giáo phái, được gọi là Sam:

“Nhưng này, Sam, đã mười chín năm kể từ khi John nói rằng hàng hóa sẽ đến. Ông hứa hẹn và rồi ông hứa hẹn, nhưng hàng hóa vẫn không đến. Không phải mười chín năm là một thời gian dài để chờ đợi mãi hay sao?” Sam ngước mắt mình từ mặt đất lên và nhìn tôi. “Nếu bạn có thể chờ Jesus Kitô hai ngàn năm, và y vẫn chưa đến, vậy sau đó, tôi có thể đợi John cho dẫu hơn mười chín năm!”

Trong quyển Can we be Good withour God? của Robert Buckman, đã trích dẫn cùng một đáp ứng đáng ngưỡng mộ từ một đệ tử của John Frum, lần này với một nhà báo người Canada, bốn mươi năm sau lần gặp gỡ của David Attenborough. [8]

Nữ hoàng Anh và Hoàng thân Philip đã đến thăm khu vực này vào năm 1974, và Hoàng thân sau đó được phong làm gót, trong một sự quay-diễn-lại của một giáo phái loại như của John Frum (một lần nữa, lưu ý cách những chi tiết trong quá trình tiến hóa tôn giáo có thể thay đổi nhanh chóng). Hoàng thân là một người đẹp trai, người sẽ khắc in lên thành một hình ảnh khôi vĩ lẫm liệt trong đồng phục hải quân màu trắng của ông, và mũ sắt kiểu kỵ sĩ có tua bằng lông màu, và có lẽ không phải ngạc nhiên là ông, chứ không phải Nữ hoàng, đã được nâng lên theo cách này, ngoài thực tế là những nền văn hóa của dân đảo đã gây khó khăn cho họ để chấp nhận một vị gót nữ.

Tôi không muốn đặt quan trọng quá nhiều vào những giáo phái thờ hàng hóa của Nam Thái Bình Dương. Nhưng chúng quả có cung cấp một khuôn mẫu hiện đại hết sức lý thú đáng chú ý về cách thức những tôn giáo khởi vọt lên từ hầu như không-gì. Trong đặc biệt, chúng nêu cho thấy bốn bài học về nguồn gốc của những tôn giáo nói chung, và tôi sẽ đưa chúng ra trong ngắn gọn ở đây. Đầu tiên là tốc độ kinh ngạc mà một tôn giáo có thể mọc lên. Thứ hai là tốc độ mà với nó, tiến trình ban đầu đã phủ lên dấu vết, giấu giếm bằng chứng của nó. John Frum, nếu như ông có hiện hữu chăng tất cả, đã che đậy như vậy ngay trong ký ức của hiện tại sống động. Tuy nhiên, ngay cả đối với khả năng có thể có mới gần đây như thế, điều không chắc chắn là không biết ông đã là nhân vật sống thực tất cả hay không. Bài học thứ ba vọt lên từ sự xuất hiện độc lập của những giáo phái tương tự, trên những đảo khác nhau. Nghiên cứu có hệ thống về những tương đồng này có thể cho chúng ta biết điều gì đó về tâm lý con người và tính chất nhạy cảm của nó với tôn giáo. Thứ tư, những giáo phái thờ hàng hóa là tương tự, không chỉ với nhau, nhưng với những tôn giáo đã có từ lâu đời hơn. Đạo Kitô và những tôn giáo cổ đại khác đã lan rộng trên toàn thế giới, có lẽ đều đã bắt đầu như những tín ngưỡng địa phương như giáo phái John Frum. Thật vậy, những học giả như Geza Vermes, Giáo sư của Dothái học tại Đại học Oxford, đã cho rằng Jesus là một trong nhiều những khuôn mặt có mãnh lực thu hút và gây được phấn khích với đám đông giống như thế, là trong những người đã nổi lên ở Palestine trong cùng khoảng thời gian của ông,  và đều có những truyền thuyết tương tự bao quanh. Hầu hết những giáo phái đó đã chết đi. Một giáo phái còn sống sót, theo quan điểm này, là tôn giáo mà chúng ta đối mặt ngày nay. Và, theo những thế kỷ trôi đã trôi qua, nó đã được tiến hóa mài dũa thêm hơn nữa vào thành hệ thống tinh vi (lựa chọn meme-truyền [9], nếu như bạn thích cách nói về nó như thế, nếu không, bạn không phải nói thế) – hay đúng hơn là những tập hợp phân nhánh khác nhau của những hệ thống hậu duệ [10] – mà chúng thống trị những vùng rộng lớn của thế giới ngày nay. Cái chết của những nhân vật có mãnh lực thu hút và gây được phấn khích đám đông, thời hiện đại như Haile Selassie, Elvis Presley và Công nương Diana cung cấp những cơ hội khác để nghiên cứu sự nổi lên nhanh chóng của những giáo phái và sự tiến hóa meme-truyền tiếp theo của chúng.

Đó là tất cả tôi muốn nói về nguồn gốc của bản thân tôn giáo, ngoài từ một đoạn lập lại ngắn gọn trong Chương 10, khi tôi thảo luận về những “người bạn tưởng tượng” một hiện tượng thời thơ ấu dưới nhan đề của “những nhu cầu” tâm lý mà tôn giáo cho rằng đã rót đầy.

Đạo đức thường được cho là có gốc rễ trong tôn giáo, và trong chương tiếp theo, tôi muốn đặt câu hỏi với quan điểm này. Tôi sẽ biện luận rằng nguồn gốc của đạo đức tự nó có thể là đối tượng của một câu hỏi theo Darwin. Cũng như khi chúng ta hỏi: những giá trị sống còn theo Darwin của tôn giáo là gì, giống thế, chúng ta có thể hỏi cùng một câu hỏi với đạo đức. Đạo đức, thực sự, có lẽ có trước tôn giáo. Cũng như với tôn giáo, chúng ta đã lui lại từ những câu hỏi, và đã viết lại nó, bằng những từ khác,  như thế với đạo đức chúng ta sẽ thấy rằng nó tốt nhất nên xem như là một sản phẩm phụ của một vài điều gì đó khác. [11]


Chương 6

Những Gốc rễ của Đạo đức: Tại sao chúng ta tốt ?

Lạ lùng là tình trạng chúng ta ở đây trên trái đất. Mỗi chúng ta đến vì một chuyến đi ngắn, không biết tại sao, nhưng đôi khi xem dường hướng đến một mục đích. Từ góc độ của đời sống hàng ngày, tuy nhiên, có một điều chúng ta thực biết: rằng con người ở đây là để giúp đỡ những người khác – hơn tất cả gì khác, hạnh phúc riêng của chúng ta tùy thuộc trên những ai có những nụ cười và sự sống an lành. (Albert  Einstein)

Nhiều người có tôn giáo thấy khó tưởng tượng, nếu không có tôn giáo, người ta có thể là người tốt, hoặc thậm chí muốn sẽ là người tốt, như thế nào.Tôi sẽ thảo luận về những câu hỏi như vậy trong chương này. Nhưng những nghi ngờ đi xa hơn, và đẩy một vài người có tôn giáo đến những cuồng kích cực điểm thù hận chống lại những ai là người không có cùng tin tưởng tôn giáo như họ.

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất 
(Jul/2013)




[1] Monty Python's Life of Brian, cũng còn có tên Life of Brian, là một phim Anh, khôi hài, năm 1979. Do nhóm Monty Python (Graham Chapman, John Cleese, Terry Gilliam, Eric Idle, Terry Jones and Michael Palin), viết, đóng và đạo diễn. Phim kể câu chuyện một nhân vật Brian Cohen, một người Dothái sinh cùng một ngày, và lại ở ngay bên cạnh nhà Jesus, và như hậu quả là bị lẫn lộn, nhậm lầm vị Cứu thế Dothái Messiah.
[2] Cargo Cults
[3] Sau khi Jesus chết, tập hợp những người tin theo Jesus vẫn tự và được xem như một giáo phái Dothái (a small sect of Judaism) nhỏ, tuy đặc biệt nhưng vẫn là đạo Judaism, và giáo phái này cũng chỉ dành riêng cho dân Dothái mà thôi, phải đến Paul, giáo phái này mới thay đổi và bắt đầu mở rộng bằng cách thu nhận tín đồ không phải dân Dothái.
[4] Sir David Attenborough. Quest in Paradise. London: Lutterworth P., 1960
[5] Nói chi đến huyền thoại Jesus hơn hai nghìn năm trước – không có gì chắc chắn, không có gì rõ rệt, đều là yếu tính của huyền thoại – kể cả những huyền thoại khởi dựng từ những ý tưởng hoàn toàn tưởng tượng (huyền thoại cái hang của Plato) – những ý tưởng này sống động vào thành những meme, trú ngụ trong não thức con người, sau đó lưu truyền liên tục qua những thời đại; và những gì vốn là có phần nào thực (hòn Vọng phu) qua thời gian, những chi tiết đặc thù địa lý và thời đại cụ thế, bị bỏ quên, mất chú ý, rơi rớt dần, sau cùng thành huyền thoại hoàn toàn, thành những meme và chúng lưu truyền, sao chép qua những thế hệ, những văn hóa. Như thấy trong tôn giáo, những meme – những ý tưởng thuần túy – thêm lớp áo trong huyền bí, lớp áo ngoài siêu nhiên, chúng trở nên có rất nhiều hấp lực, vì huyền bí và siêu nhiên là những gì  con người mê đắm; nên chúng cuốn hút con người trần gian khôn cưỡng. Kính trọng một mảnh giấy viết chữ nho, thứ chữ thánh hiền, hay một “trang kinh huyền hoặc” khó hay không hiểu, chép bằng văn tự, ngôn ngữ xa lạ, … là hiện tượng vẫn còn quen thuộc quanh chúng ta. Những meme này gắn liền với những meme khác trong ứng xử văn hóa, thành một nhóm-meme, trong đó chúng được sao chép, được bảo vệ trong thế giới vật chất vô thường. Những con người mang những meme này sẽ chết, nhưng vẫn tìm mọi cách, kể cả ác độc, lừa dối,  tai hại,… để những meme này được trân trọng, kính cẩn lưu truyền cho những đời sau.
[6] [* So sánh Isaiah 40: 4: “Mọi nơi sủng thấp sẽ được cao lên; mọi núi mọi gò sẽ bị hạ xuống; các nơi gập ghềnh sẽ làm cho bằng; các nơi dốc hãm sẽ làm thành đồng nội.” Điều tương tự này không nhất thiết chỉ ra bất kỳ thuộc tính cơ bản nổi bật nào của não thức con người, hay “vô thức tập thể” theo như Jung. Những quần đảo này đã từ lâu đã bị lan tràn phá hoại vì lây nhiễm vi trùng truyền giáo.]
[7] John Frum nhắc nhở chúng ta đến cuộc nổi loạn Thái bình Thiên quốc (Taiping - 1845-64) trong lịch sử nước Tàu cận đại. Hong Xiuquan (Hồng Tú Toàn), sau khi nghiền ngẫm kinh Thánh, đã tự xưng mình là em ruột Jesus, có thiên mệnh giải phóng nước Tàu khỏi nhà Thanh Manchu đang cai trị nước Tàu. Thành công buổi đầu đã đưa ông đến chiếm Nam kinh, đổi thành Thiên kinh, và cai trị một phần lớn vùng nam sông Dương Tử, trong hơn một thập niên. Câu chuyện loạn Taiping cho thấy đạo Kitô có thể rất dễ dàng được xử dụng trong một phong trào cách mạng cực đoan, gồm cải cách chính trị, xã hội và tôn giáo, tất cả hết sức bạo động (khoảng từ 20-50 triệu người chết trong loạn Taiping, dù nhìn theo tỉ lệ dân số Tàu, con số này cũng hết sức lớn lao). Tính chất này đã thấy ở châu Âu, trong những vận động của giáo phái Anabaptist, nhưng rõ ràng hơn trong Taiping.
Hong Xiuquan, cũng như Paul (và giống như chính Jesus), đã đều hướng tới những dân thất học, nghèo khổ và xem ra có sức thu hút với đối tượng quần chúng này. Những tương đồng song song khác cũng dễ dàng nhận thấy giữa Taiping với Tân Ước, chúng là hiển nhiên và chủ ý, không phải ngẫu nhiên. Cộng đồng Taiping đã không tồn tại lâu dài để có thể phát triển những cơ cấu tổ chức vững mạnh, như đã xảy ra với hội nhà thờ Kitô trong thế kỷ thứ hai. nhưng nghiên cứu nó, sẽ cho thấy một trường hợp thu nhỏ thật đẹp của sự thành lập hội nhà thờ thời trứng nước. Và cũng cho thấy, người học đạo Kitô này, vẫn không quên mình là người Tàu, vì khi tự xưng là “em Jesus”, Hong Xiuquan đã bản địa hóa, Tàu hóa, tôn giáo mới nhập, dùng gót-học để vận động cánh mạng chống ngoại bang (phản Thanh, phục Minh); tất cả cho thấy những Kitô Taiping đã không nhắm mắt mù quáng theo những nhà truyền giáo, không như những người Kitô Việtnam buổi đầu (và cho đến bây giờ, xem thái độ sùng thượng một chiều với A. de Rhodes), chỉ biết tuân phục những “cố đạo”, những nhà truyền giáo, chăn chiên phương Tây, cho thấy thái độ vong thân, và thiếu sáng tạo, trước sau dễ dàng dẫn đến lập trường - tin hội nhà thờ trần gian của những “cố đạo” cũng là tin hội nhà thờ của “vương quốc của Gót” – và một trong hệ quả của lòng tin đó là luôn đứng về phía những thế lực chính trị phương Tây, chống lại cộng đồng dân tộc.
[8] Robert Buckman. Can We Be Good Without God?: Biology, Behavior, and the Need to Believe. Toronto: Penguin Canada, 2004
[9] memetic selection: tạm dịch là lựa chọn meme-truyền, trên những meme (như genetic selection: lựa chọn di truyền, trên những gene )
[10] Kitô, Thệ phản, Catô, Chính thống, Bắptít, … đến Mormon nói trên.
[11] Nếu hiều hay định nghĩa tôn giáo, theo Dawkins (và nhiều tác giả khác) là hay theo tính chất các đạo Abraham, phương Tây; chúng ta không cần đặt câu hỏi này. Ở phương Đông, hiểu như hai đại diện lớn là Trung hoa và Ấn độ, (và cả chúng ta Việt nam), những xã hội của các dân tộc sống ở đây đã có phát triển những hệ thống luân lý từ lâu, thành đạt nững nền đạo đức tinh tế phức tạp; trước khi ba tôn giáo Abarham xuất hiện chính thức, và lan tràn khởi đầu yếu chậm sang phương Đông.