Wednesday, February 20, 2013

Nietzsche - Về Lai lịch của Đạo đức (21)

 Về Lai lịch của Đạo đức
(On the Genealogy of Morality
Zur Genealogie der Moral)
Friedrich Nietzsche











Luận văn Thứ Ba
Những lý tưởng khổ hạnh có nghĩa là gì?


24.
 – Và bây giờ, xem xét những trường hợp hiếm hơn mà tôi đã nói, những nhà duy-ý cuối cùng mà chúng ta có ngày nay giữa những triết gia và học giả: chúng ta có hay không, có lẽ trong số họ, những đối thủ được-tìm-kiếm chống lại những lý tưởng khổ hạnh, những nhà đối kháng-duy-ý của những lý tưởng vừa kể? Trong thực tế, những “người không tin tưởng” này, (vì đó là những gì họ tất cả đều là) họ tin tưởng chính họ; điều đó xem dường là tàn dư cuối cùng của đức tin của họ, là những đối thủ của lý tưởng này, họ là quá nghiêm trọng trên thực trạng công việc này, mỗi lời nói và từng cử chỉ của họ là quá đam mê: – có phải những gì họ tin tưởng do đó cần phải là sự thật? . . .

Chúng ta “những người hiểu biết” thì tích cực ngờ vực những người tin tưởng thuộc bất kỳ loại nào; ngờ vực của chúng ta dần đã huấn luyện chúng ta đi đến kết luận ngược lại với những gì trước đây đã là kết luận: cụ thể là, để giả định trước, bất cứ nơi nào sức mạnh của một niềm tin trở nên nổi bật, (cũng có) một sự yếu kém nhất định nào đó, ngay gồm cả sự không chắc sẽ xảy ra bằng chứng. Dẫu cho chúng ta không gạt đi chuyện đức tin “mang lại cứu rỗi”: [1] chính xác vì lý do đó chúng ta gạt đi chuyện đức tin chứng minh được bất cứ điều gì, – một đức tin mạnh mẽ nói rằng nó mang lại cứu rỗi là nền đứng vững vàng để nghi ngờ về đối tượng của đức tin của nó, nó không thiết lập sự thật, nó thiết lập một xác suất nhất định nào đó – của sự lừa dối. [2] Giờ đây, vị trí lập trường trong trường hợp này là gì? –

Những người này, những nói-“không” và những đứng-ngoài của ngày nay, những người là tuyệt đối trong một điều, đòi hỏi của họ cho có trí tuệ chặt chẽ [Sauberkeit], những não thức cứng rắn, nghiêm nhặt, kiêm khem, anh hùng này là những người bao gồm nên vinh quang của thời chúng ta, tất cả những người này, những  những người không-tin-Gót yếu nhợt, những người Phản-kitô, những người không tuân/tin luân lý, những người theo thuyết hư vô, những người hoài nghi, những người chần chừ hoãn phán đoán, những say sưa cuồng nhiệt của não thức  [des Geistes] (họ đều là một và tất cả là người kể sau nhất trong một ý nghĩa nào đó), những người duy-lý cuối cùng này của kiến ​​thức trong họ, đơn độc, lương tâm trí thức cư ngụ và được thể hiện những ngày nay, – họ tin rằng họ tất cả là được giải phóng như có thể giải phóng thoát  khỏi được với lý tưởng khổ hạnh, những tinh thần tự do, rất tự do này ấy thế nhưng , tôi sẽ nói cho họ biết những gì bản thân họ không thể nhìn thấy – vì chúng đang đứng quá gần với chính họ – lý tưởng này, khá đơn giản,  cũng là lý tưởng của họ nữa, chính họ đại diện cho nó ngày nay, và có lẽ không có ai khác, chính họ là sản phẩm phần trí thức nhất, nhóm trinh sát và đoàn quân đi đầu tiến bộ nhất của nó, hình thức quyến rũ xảo quyệt, tinh tế và khó nắm bắt nhất của nó: – nếu tất cả như tôi có khả năng giải được câu đố này, tôi ước muốn được nhận cho là làm như thế với tuyên bố này! . . . Những người này còn rất xa mới là những tinh thần tự do:  vì họ vẫn tin vào sự thật . . .

Khi quân Thập tự chinh Kitô trạm chán ở phương Đông với đội ngũ không-thể-bị-đánh-bại của những Người-Ám-sát, [3] đội ngũ của những tinh thần tự do vào hàng tuyệt hảo bậc nhất, những người đẳng cấp thấp nhất trong số họ, sống một cuộc đời của tuân phục, không từng một dòng tu tự viện nào đã đạt đến được gì loại giống như thế, bằng cách này hoặc cách  kia họ nhận được một gợi ý xa xôi của biểu tượng và khẩu hiệu đó vốn đã được dành riêng chỉ cho đẳng cấp cao nhất như dấu triện bí mật [4] của họ: “không có gì là đúng, tất cả mọi thứ được cho phép”  . . . Chắc chắn đó đã là sự tự do của não thức [des Geistes], với điều đó sự chấm dứt của tin tưởng vào chân lý đã được loan báo

Có một người châu Âu hoặc một người Kitô có tư tưởng-tự do [Freigeist] đã bao giờ đi lạc vào trong sự việc đề nghị này và mê cung của những hậu quả của nó? Ông ta có biết con quái vật Minotaur [5] của hang động này từ kinh nghiệm hay không? . . . Tôi ngờ điều đó, thực sự, tôi biết khác đi: – không có gì là xa lạ hơn với những người này, là người là tuyệt đối trong một điều, những cái gọi là ‘tinh thần tự do’ này, hơn là tự do và buông thả trong ý nghĩa đó, không trong chiều hướng nào mà họ ràng buộc vững chắc nhiều hơn; chính xác là trong niềm tin của họ trong sự thật mà họ là cứng nhắc hơn và tuyệt đối hơn bất cứ ai khác. Có lẽ tôi quá quen thuộc với tất cả những điều này: sự chay tịnh, tiết dục đó của nhà triết học đáng kính đã được kê đơn bằng một lòng tin giống như của một người có đức tin, sự kham nhẫn khắc kỷ [6] đó của nhà trí thức, trong phương sách cuối cùng, vốn phủ nhận chính nó điều “Không” cũng đúng nghiêm nhặt y như điều “Có”, ý chí đó vẫn trơ trơ đứng yên trước gì-thực-xảy-ra, factum brutum [7], như thuyết định mệnh của những sự kiện nhỏ nhặt đó: “petits faits” (ce petit faitalisme, như tôi gọi nó [8]) trong đó học giới Pháp giờ đây tìm kiếm một loại ưu thế đạo đức vượt trên giới học thuật Đức, sự từ bỏ đó về bất cứ giải thích nào (của sự ép buộc, điều chỉnh, rút ngắn, bỏ qua, làm đầy chỗ trống, phát minh, ngụy tạo và mọi thứ khác thiết yếu cho sự giải thích) – trên toàn bộ, điều này thể hiện chủ nghĩa khổ hạnh về đức hạnh cũng y như bất kỳ từ chối nào về dục cảm (cơ bản nó chỉ là một modus của sự từ chối này). Tuy nhiên, sự thúc đẩy không cưỡng được hướng về nó, ý chí vô điều kiện đó tới sự thật, chính nó là niềm tin vào lý tưởng khổ hạnh, ngay cả khi, như là một mệnh lệnh vô thức, đừng để bị lầm lẫn về nó, – nó là niềm tin vào một giá trị siêu hình, một giá trị như một sự thật loại như thế đã được nêu lên làm chứng và được xác nhận chỉ bằng một mình lý tưởng đó mà thôi (nó tăng và giảm, đứng lên hay ngã xuống vì lý tưởng đó).

Nghiêm nhặt mà nói, không có kiến thức nào không dựa trên những tiền-giả-định, suy tưởng về một điều thuộc loại như thế thì không-thể-nghĩ-tưởng được, ngoài-lôgích: một triết lý, một “niềm tin vững chãi”, luôn luôn phải có đó trước tiên, để kiến ​​thức giành lấy từ nó một chiều hướng, một ý nghĩa, một giới hạn, một phương pháp, một quyền để hiện hữu. (Bất cứ ai hiểu nó vòng vèo theo cách khác, lấy thí dụ, và cố gắng đặt triết lý trên “một nền tảng khoa học nghiêm nhặt”, phải đứng ngược trên đầu của nó trước tiên, không chỉ triết lý, nhưng chính cả sự thật cũng phải thế nữa: sự xúc phạm gây mất lòng tồi tệ nhất chống lại sự đoan trang đứng dắn có thể xảy ra được trong liên hệ đến hai phụ nữ, hai bậc nữ lưu, đáng kính dường vậy!) Đúng, không phải có nghi ngờ gì – và ở đây tôi để bộ Gay Science [9] của tôi có một lời, hãy xem quyển thứ năm (phần 344) –

“Con người trung thực, trong ý hướng gan dạ và tận cùng đó, vốn niềm tin vào khoa học lấy làm giả định trước, thế nên khẳng định một thế giới khác từ thế giới của sự sống, thiên nhiên, và lịch sử, và đến chừng mức khi người ấy khẳng định “thế giới khác” này, không phải  hay sao là người ấy do đó phủ nhận đối lập của nó, thế giới này, thế giới của chúng ta, khi làm như vậy? . . . Niềm tin của chúng ta trong khoa học thì vẫn còn dựa trên một niềm tin siêu hình, – thậm chí chúng ta những người-hiểu-biết của ngày nay, chúng ta vô thần, vô gót,  chống-những nhà siêu hình học, (chúng ta) vẫn còn lấy lửa của chúng ta từ ngọn lửa đốt cháy bởi một đức tin cũ hàng ngàn năm, đức tin đó của những tín đồ Kitô, vốn cũng là đức tin của Plato, rằng Gót là sự thật, rằng sự thật là thần linh  ... Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chính điều này ngày càng trở nên không thể tin được, khi thôi không còn gì nữa quay ra là thần linh, chỉ trừ mù lòa, sai lầm và những dối trá –  và điều gì sẽ xảy ra nếu Gót chính ông ta quay sang thành dối trá lâu đời nhất của chúng ta” –

Tại điểm này chúng ta cần phải dừng lại và dành thời giờ để ngẫm nghĩ. Bản thân khoa học bây giờ cần một sự biện minh (vốn không phải tất cả để nói rằng có một biện minh cho nó). Về câu hỏi này, quay sang những triết lý cổ xưa nhất và hiện đại nhất: tất cả trong số chúng đều thiếu ý thức về mức độ mà trong đó ý chí vươn tới sự thật chính nó cần có một biện minh, đây là một khoảng cách nứt vỡ trong mỗi triết lý – điều này đã xảy ra như thế nào? Vì lý tưởng khổ hạnh cho đến nay đã là ông chủ trên tất cả triết học, vì sự thật đã được đặt như một hữu thể, như Gót, như thẩm quyền cao nhất chính nó, vì sự thật đã không được cho phép là một vấn đề. Bạn có hiểu điều “được cho phép để là” này không? – Từ ngay chính giây phút rằng niềm tin vào Gót của lý tưởng khổ hạnh bị phủ nhận, cũng có một vấn đề mới nữa: đó là (vấn đề) giá trị của sự thật. –

Ý chí vươn tới sự thật cần một phê bình – Chúng ta hãy cùng xác định nhiệm vụ riêng của chúng ta với điều này -, giá trị của sự thật thì dự kiến toan tính ​​được gọi vào trong câu hỏi. . .

(Bất cứ ai tìm thấy điều này đưa ra quá tóm tắt ngắn ngủi, nên đọc mà phần trong Gay Science với nhan đề “cho đến mức độ nào, ngay cả chúng ta vẫn còn là đạo hạnh kính tín” (phần 344) [10], lại còn tốt hơn thế,  đọc toàn bộ quyển 5 của tác phẩm đó, tương tự như thế, đọc cả lời nói đầu của Daybreak.)


25.
Không! Hãy đừng mang khoa học đến với tôi, khi tôi đang tìm con người tự nhiên đối kháng với lý tưởng khổ hạnh, khi tôi hỏi: “Ở chỗ nào là ý chí chống đối trong đó lý tưởng đối lập của nó bày tỏ cho thấy chính nó?” Khoa học thì gần như không độc lập đủ cho điều đó; trong tấ cả mọi phương diện, trước tiên nó cần một giá trị-lý tưởng, một giá trị-sáng tạo quyền lực, trong dịch vụ nó có, nó có thể tin tưởng vào bản thân nó, – bản thân khoa học không bao giờ tạo ra những giá trị. Quan hệ của nó với lý tưởng khổ hạnh thì chắc chắn vẫn chưa mang trong mình tính đối kháng; thực sự, trường hợp là đúng hơn, nói tổng quát, nó vẫn đại diện cho sức mạnh thúc đẩy trong sự tiến hóa bên trong của lý tưởng đó. Sự xung khắc của nó và sự hay gây gỗ của nó, khi xem xét kỹ lưỡng hơn, đã không hướng đến chính bản thân lý tưởng, nhưng hướng đến những việc phụ bên ngoài của nó, che phủ ngoại diện và ngụy trang của nó, hướng đến cách lý tưởng tạm thời thành cứng rắn nhẫn tâm, vững chắc đông đặc, trở nên giáo điều – khoa học giải phóng những gì là sự sống trong nó bằng cách phủ nhận những gì công khai phổ biến trong lý tưởng này. Cả hai chúng, khoa học và lý tưởng khổ hạnh, vẫn còn trên cùng một nền tảng – tôi đã giải thích rồi –; đó là nói rằng, cả hai đánh-giá-cao-quá-lố sự thật (chính xác hơn: chúng chia sẻ cùng một niềm tin rằng sự thật không thể được thẩm định hay bị phê bình), và điều này làm cho cả hai nhất thiết thành những đồng minh, – do như thế, nếu phải chiến đấu chống chúng, chúng chỉ có thể đem ra chống lại và đặt thành vấn đề cùng với nhau. Một suy giảm giá trị của lý tưởng khổ hạnh chắc chắn mang lại một suy giảm giá trị của khoa học: người ta phải giữ mắt mở và tai vểnh lên đúng lúc cho điều này!

(Nghệ Thuật, hãy để tôi nói ngay từ đầu, vì rồi một ngày tôi sẽ dài dòng bàn luận chuyện này nhiều lời, – nghệ thuật, trong đó nói dối tự phong thánh cho nó, và ý chí đến sự lừa dối có lương tâm tốt lành đứng về phía nó, về cơ bản thì rát đối nghịch với lý tưởng khổ hạnh nhiều hơn so với khoa học: điều này đã được cảm nhận bằng bản năng bởi Plato, kẻ thù lớn nhất của nghệ thuật mà châu Âu từng đã sản xuất. Plato chống với Homer [11]: đó là sự đối kháng toàn vẹn, không bắt chước ai – một bên, là người chủ trương bào chữa “thế giới bên kia” chân thành nhất, kẻ phỉ báng vĩ đại nói xấu đời sống, bên kia, là người người sùng bái nhưng không chủ tâm của nó, bản chất hoàng kim quí giá. Sự tùng phục nghệ sĩ trong sự phục vụ của lý tưởng khổ hạnh thì như vậy là hình thức đặc thù của sự băng hoại hư hỏng nghệ thuật, đáng tiếc là một trong những phổ biến nhất: vì không có gì là băng hoại hư hỏng hơn một nghệ sĩ)

Và khi chúng ta nhìn nó một cách tâm sinh lý, cũng vậy nữa, khoa học dựa trên cùng một cơ sở như lý tưởng khổ hạnh: điều kiện tiên quyết của cả hai, cái này và cái kia, đều là một sự kiệt quệ nghèo nàn của đời sống nhất định nào đó, – những xúc cảm đã lạnh lẽo, nhịp độ đã đình trệ, lý luận biện chứng thế chỗ của bản năng, trang nghiêm đóng dấu trên những khuôn mặt và những cử chỉ (trang trọng, dấu hiệu không thể nhầm lẫn nhất đó của sự chuyển hóa dưỡng chất chậm chạp hơn và của một cuộc sống phải vật lộn cực nhọc vất vả hơn). Nhìn vào những kỷ nguyên trong đời sống của một dân tộc nơi đó những học giả chiếm ưu thế: chúng là những thời kỳ của sự kiệt sức, thường là của tranh tối tranh sáng, của suy tàn, – đã qua mất rồi là năng lượng tuôn chảy, sự chắc chắn của đời sống, sự chắc chắn về phần tương lai. Ưu thắng của đám quan liêu công chức không bao giờ là dấu hiệu của bất cứ một điều gì tốt đẹp; sự nổi lên của chế độ dân chủ cũng thế chẳng gì hơn, những tòa án quốc tế làm trọng tài thay vì chiến tranh, bình đẳng nữ quyền, tôn giáo của lòng thương hại trắc ẩn và tất cả mọi thứ khác vốn là một triệu chứng của đời sống trong suy hoại. (Khoa học được mường tượng như một vấn đề: khoa học có nghĩa gì? – So sánh với lời tựa của The Birth of Tragedy [12] về điều này).

Không! – bạn hãy mở mắt mà xem! – “Khoa học hiện đại” này [13], trong tạm thời gian này đây, là đồng minh tốt nhất cho lý tưởng khổ hạnh, với lý do đơn giản rằng nó là vô thức, không tự nguyện, bí mật và ẩn chìm ở bên dưới nhất! Kẻ “nghèo nàn trong tinh thần” [14] và những đối thủ (trong giới) khoa học của lý tưởng này đã có cho đến tận bây giờ để chơi cùng một trò chơi (nhân tiện đây, hãy cẩn thận nếu suy nghĩ rằng họ là đối nghịch của nó, tức là, kẻ giàu có về tinh thần: họ không phải là thế, tôi gọi họ là những dậm dựt cuồng nhiệt của tinh thần). Những chiến thắng nổi tiếng của cái sau này: chắc chắn chúng là những chiến thắng. Nhưng chiến thắng trên cái gì? Lý tưởng khổ hạnh dứt khoát đã không bị chinh phục, trái lại, nó đã làm mạnh mẽ hơn, tôi muốn nói có nghĩa là khó nắm bắt hơn, tinh thần nhiều hơn, xảo quyệt hơn bởi thực tế là khoa học liên tục và không chừa ra, đã tách vỡ và phá đổ một bức tường hoặc công trình bên ngoài vốn đã gắn kèm chính nó vào nó, và làm thô kệch đi dạng ngoài xuất hiện của nó. Bạn có thực sự nghĩ rằng, lấy thí dụ, đánh bại thiên văn học của thần học có nghĩa là một sự đánh bại của lý tưởng đó? . . .

Có phải con người có lẽ đã trở nên ít cần hơn một giải pháp siêu việt cho những câu đố bí hiểm về sự hiện sinh của mình, vì sự hiện sinh này đã từ đó đi đến nhìn thấy vẫn còn ngẫu nhiên tùy tiện hơn, tựa-kẻ-lang-thang hơn, và không cần thiết hơn trong trật tự của những sự-vật hữu hình? Không phải là sự tự-phản đối của con người, ý chí đến tự-phản kháng của hắn, đã không ghể chặn đứng được trên đà tăng trưởng kể từ Copernicus [15] hay sao? Đã đi mất rồi, than ôi, là niềm tin của hắn vào tính độc đáo, phẩm giá của hắn, sự không thể thay thế trong trật tự, đẳng cấp của muôn loài sinh vật, – hắn đã trở thành động vật, theo nghĩa đen, một con vật thiếu tư cách không đâu vào đâu và chẳng được chọn lựa dành riêng, con người là kẻ trong những tín ngưỡng buổi đầu trước đó của hắn là gần như Gót (“con của Gót”, “người của Gót”). . .

Kể từ Copernicus, con người dường như đã trên một con đường đi xuống, – bây giờ anh ta có vẻ đang lăn nhanh hơn và càng tuột nhanh hơn xa khỏi trung tâm – để đến đâu? vào trong hư vô? vào trong “cảm giác xuyên thấu của hư vô của hắn”? – Vâng! đó sẽ là con đường thẳng tuột –  đến lý tưởng cũ, phải không? . . .

Tất cả khoa học (và không chỉ một mình thiên văn học mà thôi, những tác động hổ thẹn và hạ phẩm giá vốn đã được Kant tách riêng chúng trong một lời thú nhận đáng chú ý đó là “nó phá hủy sự quan trọng của tôi” [16] … ), Tất cả khoa học, tự nhiên cũng như không-tự-nhiên – đây là tên tôi sẽ đem cho sự tự phê phán của tri thức ngày–  thì ngày nay đương tìm kiếm để thuyết phục con người bỏ đi lòng tự trọng cũ trước đây của mình, vì dường như điều này chẳng là gì cả, ngoài một mảnh quái lạ của tự ngã mạn, của tự cao tự đại; bạn gần như có thể nói đó là tự hào riêng của nó, là dạng khắc khổ riêng của nó về khắc kỷ kiên cường, không động tâm, bao gồm trong việc duy trì sự  tự khinh miệt đã gian khổ dành thắng được này của con người như tuyên bố cuối cùng, nghiêm trọng nhất của hắn về tự trọng (Trong thực tế, đúng như vậy: vì cá nhân là người cảm thấy khinh bỉ thì luôn luôn là một ai đó là người “đã không quên tôn trọng là thế nào” . . ). Có phải điều này thực sự làm việc chống lại lý tưởng khổ hạnh hay không? Có phải người ta trong tất cả mức độ nghiêm trọng vẫn thực sự tin (như những nhà thần học đã tưởng tượng được một thời gian),  hãy nói, rằng chiến thắng của Kant trên chủ nghĩa giáo điều khái niệm thần học (‘Gót’, ‘linh hồn’, ‘tự do’, ‘bất tử’) đã làm hư hỏng lý tưởng đó? – Chúng ta sẽ không, tạm thời lúc này, để bận tâm chúng ta với không biết liệu chính bản thân Kant đã có bất cứ điều gì như thế trong tầm nhìn hay không. Những gì là chắc chắn thì rằng tất cả mỗi loại nhà siêu nghiệm kể từ Kant đã có một bàn tay chiến thắng, họ đã được giải thoát khỏi những nhà thần học: Thật may mắn làm sao! – Ông đã chỉ cho họ con đường bí mật, từ bây giờ, trên con đường đó, độc lập, và với đúng mực trang nghiêm của khoa học, họ có thể theo đuổi “những mong muốn của trái tim họ”.

Cũng giống vậy: ai là người sẽ chê trách đổ lỗi cho những người theo thuyết ngộ đạo [17], như những kẻ thờ phượng cái-không-biết và cái bí mật, nếu như họ tôn thờ chính cái dấu chấm hỏi như là Gót [18]. (Xaver Doudan [19], hơn một lần, có nói về sự tàn phá gây ra bởi “thói quen của ngưỡng mộ sự không biết không hiểu được thay vào chỗ hãy đơn giản để yên trong sự không biết”; ông nghĩ rằng người xưa đã tránh được điều này [20].) Giả sử rằng tất cả mọi sự vật việc mà con người ‘biết’ đều không thỏa mãn những khao khát mong ước của hắn, nhưng thay vì mâu thuẫn, nói ngược lại chúng, và gợi lên sự kinh hoàng, vậy một bào chữa thần thánh nào đây là được phép để đem đặt tội lỗi cho điều này nằm ở ngưỡng cửa của sự “hiểu biết” hơn là sự “ước muốn”! . . .

“Không có sự hiểu biết: dẫn đến hệ quả – có một Gót”: một thói quen chuyển cái không-biết vào thành cái ngưỡng mộ mới, thay vì cứ để nguyên là không-biết [21] Thật là một chiến thắng lớn chừng nào cho lý tưởng khổ hạnh! – 


26.
Hay có phải toàn bộ của ngành học-chép-sử [22] hiện đại đã chiếm một vị trí tự tin hơn, nhìn theo hướng đời sống và những lý tưởng? Tuyên xưng cao thượng nhất của nó ngày nay rằng nó là một tấm gương, nó từ chối tất cả những cứu cánh luận, nó không muốn “chứng minh” bất cứ điều gì hơn thêm nữa; nó coi khinh vai trò quan tòa, và cho thấy thẩm khiếu tốt ở đấy, – nó xác nhận cũng thật ít như nó phủ nhận, nó khẳng định và ‘mô tả’. . . Tất cả điều này là khổ hạnh đến một mức độ cao; nhưng đến một mức độ cao hơn nó là hư vô, đừng có lầm lẫn về nó! Bạn nhìn thấy một cái nhìn buồn bã, cứng cỏi nhưng quả quyết, –   một con mắt nhìn chằm chằm, như một nhà thám hiểm đơn độc ở Bắc Cực (có lẽ vậy vì không nhìn vào? hay nhìn ngoái lại? …). Nơi đây có tuyết, nơi đây đời sống thì im lặng, tiếng quạ kêu lần cuối ở nơi đây nghe như là “để làm gì?”, “vô vọng”, “không gì” [23] – ở đây không có gì khởi sắc, hay lớn dậy gì nữa, ngoại trừ, có lẽ, cho siêu-chính trị [24] thành St Petersburg và lòng “trắc ẩn thương người” của Tolstoi.  

Nhìn theo chiều hướng của loại khác đó của nhà sử học, có lẽ lại càng hơn “hiện đại”, tìm kiếm-lạc thú, loại ưa nhục dục là người tán tỉnh với đời sống cũng nhiều như với lý tưởng khổ hạnh, người sử dụng từ “nghệ sĩ” như một chiếc bao tay và trưng dụng cho chính mình lời khen ngợi của trầm tưởng suy nghiệm: Ô, thật là biết chừng nào những trí khôn lanh ngọt sớt mùi mẫn này làm cho tôi khát ngay cả đến  những khổ hạnh và những cảnh sắc mùa đông! Không! Hãy để những con người “trầm tưởng suy nghiệm” giống như thế đến với ma quỷ đi! Tôi sẽ thích vô cùng hơn nhiều thà đi lang thang qua những sương mù ảm đạm, tối xám, lạnh lẽo nhất, với những kẻ theo chủ nghĩa hư vô lịch sử! đó – Thực sự, nếu tôi đã phải lựa chọn, tôi thậm chí có thể nghe một người khá phi-lịch sử, chống-lịch sử (chẳng hạn như Dühring, có giọng nói làm mê mẩn một chủng loại cho đến nay khó thấy và không được công nhận của “những linh hồn đẹp” trong nước Đức ngày nay, chủng loài phi-chính-phủ [25] trong giai cấp vô sản có giáo dục).

“Những người trầm tưởng” là hàng trăm lần tồi tệ hơn: Tôi không biết có gì cũng làm buồn nôn như loại này của học giả tài tử “khách quan” và người ham nhục dục thơm nước hoa hướng tới lịch sử, một nửa thày chăn chiên, một nửa loại nửa-người-nửa-dê-ham-truy-hoan [26], có mùi Renan [27], là người tiết lộ cho thấy, chỉ đơn giản qua cái giọng đàn ông the thé của sự chấp thuận của ông, tất cả những gì ông thiếu, chỗ nào ông không có nó, chỗ nào số phận trong trường hợp của ông từng là, than ôi! Thà là quá sức mổ xẻ với những cây kéo độc ác của họ! Tôi không có thẩm vị cũng chẳng có kiên nhẫn cho điều này: cá nhân với không có gì để mất bằng cách làm như thế, có thể giữ kiên nhẫn khi nhìn những cảnh tượng loại như vậy, tôi trở nên giận dữ với họ, những ‘khán giả’ loại như vậy làm tôi cay đắng với ‘”vở kịch” hơn là vở kịch chính nó làm cho tôi (Lịch sử chính nó, bạn hiểu đấy), tâm trạng ngất ngây tình và rượu bất ngờ chiếm giữ tôi [28]. Thiên nhiên, vốn đã cho con bò sừng của nó, và cho sư tử “kẽ răng hở khoe lúc ngáp” của nó [29], đã cho tôi một bàn chân để làm gì đây? . . . Để đá, trời đất thánh thần Anacreon ơi! không chỉ để chạy đi: để đá tan thành những mảnh vụn những cái ghế bành mục thối, sự trầm tưởng hèn nhát này, lối quan hoạn [30] vô sỉ dâm ô này hướng tới lịch sử, sự tán tỉnh với những lý tưởng khổ hạnh, cái lối giả nhân giả nghĩa với công bằng này mà chẳng qua là những kết quả từ sự bất lực sinh lý!

Tôi có tất cả mọi sự tôn trọng với lý tưởng khổ hạnh trong miễn là đến chừng nào nó thì trung thực! miễn là đến chừng nào nó tin tưởng vào chính bản thân nó, và đừng có đem kể với chúng ta những chuyện cười đùa bỡn cợt! Nhưng tôi không thích tất cả những những loài rệp đỏm đáng này, với tham vọng vô độ của chúng để đánh hơi ngửi cho ra được sự vô cùng, cho đến khi cuối cùng, sự vô cùng có đầy mùi rệp, tôi không thích những ngôi mộ quét vôi trắng vốn chúng miêu tả cuộc đời, tôi không thích cái mệt mỏi và mệt lử kiệt sức là người thu tóm mình như vào tổ kén trong khôn ngoan và cái nhìn “khách quan”; Tôi không thích những kẻ khuấy động khoác quần áo đóng bộ như những anh hùng, là người đội một chiếc mũ kỳ diệu của những lý tưởng bao quanh cái đầu đầy rơm của họ, tôi không thích những nghệ sĩ đầy tham vọng, là những người muốn được xem nhận như những nhà tu khổ hạnh và những thày chăn chiên,  và về cơ bản chỉ là những tên hề thảm hại thống thiết, tôi cũng không thích những kẻ đầu cơ mới nhất trong chủ nghĩa ý tưởng, những kẻ bài-Dothái, những kẻ ngày nay mở tròn mắt Kitô-Aryan-Philistine [31] của họ, và cố gắng khuấy động lên những yếu tố trâu bò trong dân chúng thông qua một sự lạm dụng, vốn làm cạn kiệt hết tất cả kiên nhẫn, của những phương tiện rẻ tiền nhất của sự kích động, cái thái độ đạo đức (– thực tế là tất cả những loại lừa bịp kiểu lang băm [32] ngày nay ở nước Đức được khen thưởng với thành công thì liên quan đến sự tan hoang đã rõ ràng rồi, đã sờ được, thực tế không thể phủ nhận, của tinh thần Đức [des deutschen Geistes], nguyên nhân của nó mà tôi tìm kiếm trong những gần như chỉ độc riêng trong chế độ ăn uống của những tờ báo, chính trị, rượu bia và âm nhạc theo Wagner, thêm nữa, những điều kiện tiên quyết cho chế độ này: cụ thể là tính chất hẹp hòi quốc gia và kiêu căng tự đại, nguyên lý mạnh mẽ nhưng hẹp hòi của Deutschland Deutschland über Alles [33], cũng như những kẻ run rẩy tê liệt [34] của những “lý tưởng hiện đại”).

Châu Âu thì phong phú và sáng tạo ngày nay, đặc biệt là trong những phương pháp của kích thích, không có gì có vẻ quan trọng hơn là những kích thích [35] và rượu mạnh: điều này giải thích sự đạo đức giả khổng lồ trong những lý tưởng, rượu thơm loại mạnh nhất, và do đó, cũng giải thích, không khí giả-rượu-uống, làm ra vẻ có-rượu, ghê tởm, dậy mùi thối khắm, gian dối, ở khắp mọi nơi. Tôi muốn biết có bao nhiêu chuyến tàu chất đầy ý tưởng chủ nghĩa giả mạo, bao nhiêu những bộ vó trang phục anh hùng, và huyên thuyên liếng tháu loảng xoảng như tiếng trống thiếc những từ ngữ tuyệt vời, bao nhiêu tấn của sự cảm thông,có trộn đường, pha rượu, (nhà chưng cất: tôn giáo của sự đau khổ [36]), bao nhiêu cột đứng chống của “sự phẫn nộ cao thượng” để giúp cho tinh thần nhất quyết cứng rắn, bao nhiêu những diễn viên hài kịch của lý tưởng đạo đức Kitô mà châu Âu sẽ phải xuất cảng (bớt đi)  cho không khí của nó ngửi có mùi sạch hơn. . .

Rõ ràng, một loại giao thương mới thì có khả năng được mở ra nhìn theo hướng sản xuất dư thừa này, rõ ràng, ‘kinh doanh’ có thể được thực hiện từ những lý tưởng-sùng bái thần tượng nhỏ bé, và những “người theo chủ nghĩa ý tưởng” có liên quan:  đừng có để lỡ mất cơ hội, dừng có để nó vuột qua! – Ai có đủ can đảm cho nó? – Nó là nằm trong tay chúng ta, dù cho chúng ta có “ý tưởng hóa” toàn bộ trái đất hay không! . . . [37]

Nhưng tại sao tôi lại nói về sự can đảm: chỉ một điều là cần thiết duy nhất ở đây, một bàn tay, một không bị ngăn cấm, bàn tay rất đích thực không bị ngăn cấm. . .  [38]


27.
 – Đủ rồi! Đủ rồi! Chúng ta hãy cùng rời khỏi những lạ lẫm bất thường này và những phức tạp của tinh thần hiện đại nhất, vốn nó có nhiều những phương diện lố bịch buồn cười cũng như châm chọc ngứa ngáy: vấn đề của chúng ta, thực sự, có thể làm mà không có chúng, vấn đề của ý nghĩa của lý tưởng khổ hạnh, – vấn đề này có liên quan gì với ngày qua và ngày nay! Những điều này sẽ được tôi giải quyết đầy đủ và nghiêm trang hơn trong một kết nối khác (dưới nhan đề “Về lịch sử của Chủ nghĩa hư vô châu Âu”; mà tôi giới thiệu với bạn một công trình tôi đang viết, Ý dục Quyền lực. Nỗ lực về một Đánh giá lại tất cả những Giá trị)[39] . Lý do duy nhất tôi đã nhắc chỉ đến điều này là lý tưởng khổ hạnh, trong hiện tại, ngay cả trong lĩnh vực tâm linh nhất, có chỉ một loại kẻ thù thực sự và kẻ gây thương: đây là những diễn viên hài kịch của lý tưởng này, – vì họ khơi dậy sự thiếu tin tưởng. Ở khắp mọi nơi khác, nơi tinh thần thì làm việc trong một cách nghiêm ngặt, mạnh mẽ và trung thực, nó bây giờ hoàn toàn thiếu một lý tưởng – biểu hiện phổ thông cho sự thiếu vắng này là “chủ nghĩa không-gót” [40] –: ngoại trừ ý chí đến sự thật của nó. Nhưng ý chí này, tàn dư này của một lý tưởng, nếu bạn tin tôi, là lý tưởng đó chính nó trong dạng thức hình thành tinh thần nhất, chặt chẽ nhất, hoàn toàn bí truyền, hoàn toàn bị tước hết những gì bên ngoài nhất của nó; và như thế, không quá nhiều tàn dư của nó như là lõi nhân[41] của nó. Chủ nghĩa không-gót vô điều kiện, trung thực (một mình không khí của nó là những gì chúng ta hít thở, chúng ta con người tinh thần hơn cả của thời đại!) thì do đó không trái ngược với lý tưởng khổ hạnh như nó xem ra có vẻ xuất hiện là, thay vào đó, nó là chỉ một trong những giai đoạn phát triển cuối cùng của lý tưởng, một trong những hình thức cuối cùng của nó và thừa hưởng những kết luận lôgích, nó là thảm họa gây kinh hoàng của hai ngàn năm kỷ luật trong nói-kể-sự thật, nó cuối cùng cấm chính nó sự nói dối đã là di sản kế thừa trong niềm tin vào Gót.

(Cùng một tiến trình phát triển ở India, hoàn toàn độc lập, do đó nó chứng minh một gì đó, cùng một lý tưởng buộc đến cùng kết luận, đạt đến được điểm quyết định đã từ năm thế kỷ trước khi công nguyên Châu Âu bắt đầu, với Đức Phật, hay chính xác hơn: đã có với triết học Sankhya [42], sau đó được Đức Phật phổ biến rộng rãi và thực hiện vào trong một tôn giáo)

Điều gì, nói cho chặt chẽ, đã thực sự chinh phục Gót của tín đồ Kitô? Câu trả lời là trong Gay Science của tôi (mục 357): “đạo đức Kitô chính nó, khái niệm về tính trung thực vốn được tiếp nhận nghiêm trang hơn và nhiều hơn nữa, tính câu nệ chú ý đến chi tiết tỉ mỉ, hình thức vụn vặt trong xưng tội của lương tâm đạo Kitô, đã chuyển dịch và thăng hoa vào trong lương tâm khoa học, vào trong trí thức chặt chẽ dẫu với bất cứ giá nào. Nhìn thiên nhiên như thể đó là một bằng chứng của sự tốt lành và sự bảo bọc phòng xa của Gót khi diễn dịch lịch sử trong trong ý hướng tôn vinh của lý tính thần linh, như là một chứng thực bất biến cho một trật tự thế giới đạo đức và một kết quả đạo đức sau cùng; giải thích tất cả những kinh nghiệm riêng tư của một người theo đường lối dân gian kính tín đã làm trong thời gian quá đủ dài, như thể tất cả đã là sự bảo bọc phòng xa của Gót, một dấu hiệu, đã được dự định, và được gửi cho sự cứu rỗi của linh hồn: bây giờ tất cả điều đó là đã hết rồi, nó có lương tâm chống lại nó, tất cả lương tâm nhạy cảm nhìn thấy nó như không chân chính, không thành thực, như là một gói của những lời gian dối, chủ trương nữ quyền [43], sự yếu đuối, sự hèn nhát, – nghiêm trọng này làm chúng ta thành những người châu Âu tốt, nếu như có bất cứ điều gì làm thế, và làm chúng ta thành những thừa kế của sự tự-vượt-thắng dài đằng đẵng nhất và can đảm nhất của châu Âu!” ...

Tất cả những điều lớn lao gây đẩy đến sự sụp đổ của chúng qua một hành vi của sự tự-thăng-hoa: đó là quy luật của cuộc sống, là luật của sự tự-vượt-thắng cần thiết trong yếu tính của sự sống, – tự thân những kẻ ban luật thì luôn luôn là cuối cùng bị phơi mở ra vơi tiếng kêu: “hãy đặt mình dưới luật chính bạn đã tự làm” [44]. Trong cách này, đạo Kitô như một giáo điều đã bị phá hủy bởi chính đạo đức riêng của nó, trong cùng một cách đạo Kitô như một nền luân lý phải cũng bị phá hủy, chúng ta đứng trên ngưỡng cửa của sự xảy ra này. Sau khi sự trung thực Kitô đã rút ra kết luận này đến kết luận khác, cuối cùng nó sẽ rút ra kết luận mạnh nhất, đó là chống lại chính nó, tuy nhiên, điều này sẽ xảy ra khi nó hỏi chính bản thân nó, “Tất cả ý dục đến sự thật có nghĩa là gì? ” ...

Và ở đây tôi lại chạm vào vấn đề của tôi lần nữa, vấn đề của chúng ta, những người bạn còn-chưa-biết của tôi (vì tôi không biết bất kỳ một bạn nào đã như thế cả): hiện sinh của chúng ta có nghĩa là gì, nếu nó đã không phải là điều mà ý dục đến sự thật đã trở thành ý thức của chính nó như là một vấn đề trong chúng ta? . . .

Không nghi ngờ gì nữa, từ giờ trở đi, đạo đức sẽ bị hủy diệt bởi ý dục đến sự trở-thành-ý-thức-của-chính-nó của sự thật: vở kịch vĩ đại đó trong hàng trăm hồi được dành riêng cho châu Âu trong hai thế kỷ kế tiếp, vở kịch khủng khiếp nhất, đáng đặt câu hỏi nhất,  nhưng có lẽ cũng là một vở kịch giàu có nhất trong hy vọng. ...


28.
Ngoại trừ lý tưởng khổ hạnh: con người, con người động vật, đã không có ý nghĩa gì cho đến nay. Sự hiện sinh của nó trên trái đất không có mục đích nào, “con người là để làm gì, thực sự?” – đã là một câu hỏi mà không có một trả lời, không có ý chí cho con người và trái đất, đằng sau mỗi số phận con người lớn lao đã vang dội điệp khúc càng lớn hơn nữa “trong vô ích”. Đây là những gì lý tưởng khổ hạnh có nghĩa: một-gì đó đã thiếu vắng thất lạc, đã có một khoảng trống bao la quanh con người, bản thân nó không thể nghĩ ra được sự biện minh, hoặc sự giải thích, hoặc sự khẳng định nào, nó bị đau khổ vì vấn đề – hắn có nghĩa là gì. Có những thứ khác cũng làm hắn đau khổ nữa, trong chính yếu hắn là một con thú ốm đau; nhưng chính đau khổ đã không phải là vấn đề của hắn, thay vào đó, sự kiện rằng không có trả lời cho câu hỏi hắn kêu gào, “Đau khổ cho cái gì?”[45]

Con người, con vật dũng cảm nhất và dễ bị đau khổ nhất, lại không phủ nhận sụ đau khổ như vậy: con người lại có ý chí muốn có nó, thậm chí hắn còn tìm kiếm nó, miễn là hắn được cho thấy một ý nghĩa cho nó, một mục đích của sự đau khổ. Sự không-có-ý-nghĩa của đau khổ, không phải sự đau khổ, đã là lời nguyền-độc, cho đến nay nó đã bôi đen loài người, lý tưởng khổ hạnh đã cung cấp cho con người một ý nghĩa! Cho đến nay, nó đã là ý nghĩa duy nhất, nhưng có bất kỳ dù ý nghĩa nào vẫn là tốt hơn so với không có ý nghĩa nào tất cả; lý tưởng khổ hạnh, trong mọi phương diện, đã là cái sau cùng “vì thiếu, không có gì hơnthượng hảo hạng [46]. Bên trong nó, đau khổ đã được giải thích, sự trống không khổng lồ dường như được lấp đầy; cửa đã được đóng trên tất cả những chủ nghĩa hư vô tự vẫn. Sự diễn giải – không phải nghi ngờ gì – đã mang lại đau khổ mới với nó, sâu xa hơn, nội bộ hơn, độc hại đau đớn hơn, đau khổ mà cắn gặm nhổ mạnh mẽ hơn vào sự sống: nó mang tất cả đau khổ vào bên trong quan điểm lớn rộng, cái nhìn theo viễn cảnh của phạm tội. . . [47]

Nhưng dù tất cả như thế – con người đã được cứu, hắn đã có một ý nghĩa, từ bây giờ trở đi, hắn không còn giống như một chiếc lá trong gió, như đồ chơi của sự phi lý, của “vô-nghĩa-lý”; từ giờ trở đi, hắn có thể ý chí một gì đó, – bất kể nội dung là gì, tại sao và như thế nào hắn đã làm nó lúc đầu, ý chí tự nó đã được cứu.

Nó là tuyệt đối không thể nào cho chúng ta che giấu những gì đã thực sự thể hiện rằng toàn bộ ý dục mong muốn đó, có nguồn gốc phương hướng của nó từ lý tưởng khổ hạnh: sự hận thù này của con người, và thậm chí hơn nữa của thú tính, thậm chí hơn nữa của vật chất, sự kinh hoàng này về những giác quan, về lý trí chính nó, sự sợ hãi này với hạnh phúc và với cái đẹp, sự khao khát này để chạy cho xa khỏi những dạng ngoài, vô thường, sự sinh trưởng, cái chết, ước mong, xa khỏi mong đợi chính nó – tất cả đó có nghĩa là, chúng ta hãy cùng mạnh bạo nắm bắt lấy nó, một ý chí đến hư vô, một ác cảm với đời sống, một cuộc nổi loạn chống lại những điều kiện tiên quyết cơ bản nhất của sự sống, nhưng nó là, và vẫn còn là môt ý chí! . . . Và, để kết luận bằng nói lại những gì tôi đã nói ở khởi đầu: con người vẫn thà thích ý chí đến sự hư vô, hơn là không ý chí  . .   [48]

Friedrich Nietzsche
Sils-Maria, Oberengadin, im Juli 1887.

Lê Dọn Bàn đọc và tạm dịch  – bản nháp thứ nhất 
(Feb/2013)






[1] [ Luke 1.45; John 20.29]
[2] Nếu những gì đang nói, đang kêu gọi, đang tin tưởng là chân thực, là chân lý – đã không cần phải kêu gọi đến tin tưởng quá nhiều như thế – và dĩ nhiên đã không phải đề cao, nâng lên đến mức thành một đức hạnh – chúng ta biết, tin tưởng trong đạo Kitô được coi rất trọng – được xem là một đức hạnh cao quí – đáng tôn kính, nên vẫn gọi tin tưởng này với tên-gọi là “đức tin”.
Ở đây, thực sự Nietzsche lý luận rất bình thường – ông phát biểu thành một mệnh đề tổng quát, tôi diễn dịch lại cho rõ hơn: “bất cứ nơi nào (có) sức mạnh của một niềm tin (nếu chúng ta thấy nó) trở nên nổi bật, (nơi ấy hẳn cũng phải có) một nhược điểm nhất định nào đó”, và có khi nhược điểm này nằm ngay trong sự kiện quan trọng nhất – cụ thể là bằng chứng cho chính niềm tin – Tin bao giờ cũng là tin về một đối tượng nào đó – và chính vì đối tượng của niềm tin này không bao giờ có thể xảy ra là có được bằng chứng, nghĩa là chúng ta có quyền nghi ngờ đối tượng niềm tin này có thể đã/sẽ không có; nên chúng ta thấy người ta phải kêu lớn giọng, gào to tiếng, thường có khi đi đến cuồng nhiệt trong mỗi lời nói và từng cử chỉ, – Chính càng kêu to bao nhiêu, càng nghi lễ điệu bộ bao nhiêu, càng nghiêm trọng bao nhiêu – càng dễ làm những người ấy có chỗ đáng ngờ – giống một người đang trốn nhưng kêu van “lạy ông tôi ở bụi này!”, thế nên chúng ta càng nghi ngờ là “đức tin” này sẽ có yếu điểm đâu đó – và quả là đã ở ngay ở chính đối tượng của tin tưởng này là “không chắc sẽ xảy ra, đối tượng của chính tin tưởng đang kêu gọi phải, nên tin tưởng này vẫn không có gì làm bằng chứng cho nó”!
Có thể nói, với “chúng ta là những người hiểu biết” nhưng có “hoài nghi tích cực” – thấy rõ được sự kiện của một hiện tượng tôn giáo: càng kêu gọi tin vào X (cứu rỗi, Gót), càng cho thấy X có-gì đó dường như không đứng vững, và trong trường hợp này – thậm chí đối tượng (Z nào đó) của đức tin X đó của nó là không thực – thế nên X là một lừa dối thê thảm, trắng trợn, trâng tráo, mê sảng đến lợm giọng, buồn nôn, vừa đáng thương vừa đáng khinh, vừa đáng tởm. Điều này cũng tương tự như hiện tượng quanh chúng ta; khi nghe có người ta bàn luận, đề nghi, tranh cãi về dân chủ, đâu đó chỗ đó không có hay còn thiếu dân chủ, tương tự, nơi nào kêu gọi, giảng dạy, bàn bạc về đạo đức là nơi đó thiếu hay không có đạo đức, kêu gọi thương yêu là nơi đó còn thiếu thương yêu!
Sigmund Freud, sẽ khai triển những gì Nietzsche viết vắn tắt, và tôi mở rộng ở trên – xem thêm  Tương lai của một Ảo tưởng, – bản dịch tôi đã phổ biến trên blog này. Và mới đây, chúng ta lại sẽ gặp lại  lý luận xuất hiện trở lại, trong những nhà vô thần mới – điển hình và tiêu biểu là Richard Dawkins, The God Delusion – khi có cơ hội tôi cũng sẽ dịch và giới thiệu tác phẩm này.
[3] Assassins: tác giả chỉ một tổ chức kín (secret order) của những người Muslim, đặc biệt trong thời gian có những những đoàn quân viễn chinh Kitô, đánh phá cướp bóc, chiếm cứ vùng Trung Đông, ở các xứ Persia và Syria, trong khoảng 1090 đến 1272.  Mục đích chính của những người trong những tổ chức, đội ngũ này là ám sát những người trong những đoàn quân thập tự chinh (Crusaders) của hội nhà thờ Kitô châu Âu.
[4] secretum
[5] Minotaur: (Minotauros) – quái vật mình người nhưng đầu trâu có sừng dài, là kết quả của nữ thần Pasiphaë và một con trâu gỗ do Daedalus làm thành – Sau đó, Minotauros bị giam trong một hang đá có lối đi cực kỳ rối rắm, ai vào sẽ không ra được, do Daedalus xây trên đảo Crete, theo lệnh vua Minos, chồng Pasiphaë,  (Daedalus cũng bj giam chung) –  cuối cùng Minotauros bị Theseus giết chết.
[6] stoicism: ở đây là thuật từ – chỉ có tính chất hay sự chịu đựng đau đớn hay khổ nhọc nhưng không bày tổ hay than trách. 
[7] factum brutum: tạm hiểu ở đây, là gì-thực-xảy-ra (factum – gọi là thực tại hay thực tế) thô bạo, phũ phàng (brutum) – một thực tại phũ phàng: có thể được định nghĩa như khi tiếp nhận một thực trạng, công việc, tự sự nào đó mà không có một lý do nào và không có một giải thích hay diễn dịch nào đi kèm với nó tất cả. Nietzsche xem triết học dựa trên thực tại của chủ nghĩa thực chứng (positivism) là một hình thức của chủ nghĩa định mệnh (fatalism) một loại mặc nhận trong sự liên tục của những hiện trạng (status quo).  Đặc biệt là câu hỏi – tại sao nó có?  Tôi nghĩ những gì Nietzsche bàn trên đây có liên hệ với một nguyên lý trong triết học, vẫn hiểu là do Leibniz phát biểu, gọi là Nguyên lý về Đầy đủ Lý do (Principle of Sufficient Reason – theo Leibniz – Nguyên lý về Đầy đủ Lý do là một nguyên lý đề ra trong triết học, rất mạnh mẽ và vẫn gây nhiều tranh luận chưa ngã ngũ, nó táo bạo đặt ước định, hay đưa ra như điều khoản rằng tất cả mọi sự-vật-việc đều phải có một lý do hay nguyên nhân – (everything must have a reason or cause), nếu nguyên lý này đứng vững và hoàn toàn được chấp nhận thì dĩ nhiên không có “thực tại phũ phàng” vẫn đập vào chúng ta, và thiếu lý do giải thích thỏa đáng, khiến chúng ta không hiểu nổi – đưa đến factum brutum Nietzsche nói trên.
Nguyên lý về Đầy đủ Lý do chúng ta nhắc trên, dĩ nhiên còn tranh cãi. Tranh cãi tôi tạm tóm tắt như sau:
Trả lời câu hỏi – “Tại sao lại có dẫu gì-gì tất cả?” (Why Is There Anything At All? – đó cũng là câu hỏi nổi tiếng Heidegger phát biểu – mở đầu bài giảng về siêu hình nổi tiếng của ông – “Why is there something rather than nothing?” – Tại sao lại Có-gì hơn là/thay vì không-Có-gì?) – tôi tạm dẫn ba cách trả lời chính yếu nhưng rất khái quát hiện nay – để cốt tạm đưa vào để hiểu phê bình trên đây của Nietzsche:
(a) Giải thích bằng thực tại phũ phàng: Theo cách đặt và nhìn vấn đề này: Không có giải thích nào tất cả về phần tại sao bất cứ gì hiện hữu. Như Russell đã nói trong lần tranh luận nổi tiếng của ông, với một học giả duy thần, tin-Gót, trên đài BBC, không phải nguyên văn như đã phát biểu, nhưng nội dung tôi hiểu như sau: “Vũ trụ thì đơn giản là có đó, và tất cả chỉ là thế”. (The universe is just there, and that is all.)
(b) Giải thích bằng tin tưởng vào siêu nhiên – (thần linh, hay Gót của thần học). Theo cách đặt và nhìn vấn đề này: Có một hữu thế tất yếu siêu hình và như thế hữu thế đó tự-giải thích, gọi là Gót. Hiện hữu và hoạt động của Gót giải thích sự hiện hữu của tất cả mọi sự-vật-việc, giải thích tất cả, dĩ nhiên ngoại trừ chính Gót (vì Gót tự giải thích, Gót biện minh chính mình). Dĩ nhiên hữu thế tất yếu siêu hình và tự-giải thích đó như Voltaire nói “ Nếu như Gót không có, thì phải tạo ra ông” cốt để những ai muốn giải thích theo siêu nhiên lối này có thể dựa nhắm mắt, an tâm (“Si Dieu n'existait pas, il faudrait l'inventer”)
(c) Giải thích bằng Gạt bỏ chính câu hỏi.  Câu hỏi bị gạt bỏ trước khi trả lời vì khi xem xét lại chính cách đặt và nhìn vấn đề này, tự thân câu hỏi đưa ra đã là vô nghĩa, vì câu hỏi đã thành lập một cách tập tễnh, tật nguyền, không có căn cứ vững chắc. Hãy so sánh với câu hỏi: “Thời gian trôi nhanh như thế nào?” – đây là một câu hỏi giả tạo, tật nguyền; vì nó dựa trên một tiền-giả-định sai lầm, đó là, thời gian là một tiến trình và có thể đo lường được bên trong chính thời gian (đo thời gian nhưng vẫn đứng trong thời gian – cũng như một người đứng trên toa tàu đang chạy, nhưng hỏi – con tàu chạy nhanh như thế nào); dẫu thời gian là gì đi nữa, nó không là một tiến trình trong thời gian. Nếu nó có “trôi”, nó không trôi giống như một giòng sông với một tốc độ có thể đo lường được. 
Người ta không trả lời một câu hỏi-giả tưởng (pseudo-question); người ta gạt bỏ nó.  Câu hỏi này – “Tại sao lại có dẫu gì-gì tất cả?” – bị gạt bỏ – không phải trả lời – tương tự như câu hỏi, lấy thí dụ, “Anh bỏ thuốc lá từ bao giờ vậy?” – vì câu hỏi này có giả định là anh đã có hút thuốc lá, nghiện thuốc lá – nhưng nếu anh không bao giờ hút thuốc lá cả – câu hỏi này là một câu hỏi vô nghĩa, tự nó không đứng vững (ill-formed, as senseless) không thể đặt ra với anh – và chúng ta, những người không hút thuốc lá bao giờ – không phải trả lời.
Tương tự như vậy, khi một ai cố ý hay vô tình, đánh lừa chúng ta, hỏi: “Anh có tin Gót không?” – câu hỏi này là một câu hỏi tật nguyền, câu hỏi giả, hỏi tin hay không về một-gì-đó chưa biết có hay không, hay không biết có-hay-không, hay ít nhất 50% hoàn toàn không có. Nếu chúng ta trả lời – có, hay không; chúng ta đều mặc nhiên chấp nhận như Gót đã có rồi – chỉ có chuyện là tin hay không thôi, như thế khi nói dù “không tin” – chúng ta đã vướng vào ý hướng  – có thể có, hay có một Gót đấy, nhưng tôi không tin như người hỏi là có. Trong khi thực ra, nên tảng của câu hỏi đã ẩn ý  một Gót (nhưng dù rộng rãi nhất cũng chỉ mới có đến một nửa, còn một nửa kia vẫn ngờ – 50% – chính vì nghi ngờ nên mới phải hỏi có tin không). Nên câu hỏi thiếu nền tảng (hỏi về một-gì còn chưa biết có hay không) và như thế không thể đặt thành câu hỏi được (có tin về một gì vẫn còn ngờ, và chưa biết có hay không), đặt trên nền tảng khập khễnh như thế nên nó là một câu hỏi vô nghĩa – không thể có câu trả lời, vì câu trả lời nào cũng vô nghĩa với một câu hỏi vô nghĩa!
Để giải quyết vấn đề – loại người ta vẫn thường nói về một gì-đó, trong ngôn ngữ, và trí tưởng (như chuyện lông rùa, sừng thỏ, Gót); nhưng một gì-đó nói đến, nhắc về; không có trong thực tại, không hiện hữu, hay chính hiện hữu của nó còn là một câu hỏi; Nietzsche đã tinh tế nhận biết làm lẫn này ở những gì ông dài dòng nói với chúng ta trong đoạn văn trên (về nơi nào có niềm tin nơi đó chúng ta nên nghi ngờ có một gì đó không thực, có sự lừa dối; về những nhà đối kháng-duy-ý), Nietzsche và những nhà triết học lục địa (Pháp-Đức) vẫn phải chịu đựng factum brutum, thực tại phũ phàng; nhưng tất cả phải chờ đến đầu thế kỷ XX với triết học phân tích của Russell mới đưa ra lý thuyết để trình bày sai lầm cơ bản này dưới ánh sáng lôgích và đánh đổ nó hoàn toàn. Bertrand Russell trình bày giải đáp cho vấn đề này trong luận thuyết nổi tiếng “On Denoting” của ông; bài luận văn hết sức quan trọng và đến nay vẫn được nhìn nhận là có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX, dĩ nhiên tôi không thể tóm tắt cho xứng đáng ở đây, nhưng sẽ giới thiệu một dịp khác.
[8] chơi chữ giữa các từ “fatalisn” và “faitalisme” trong tiếng Đức, và ít nhiều trong tiếng Anh – small facts (the small factalism)
[9] Die fröhliche Wissenschaft, 1882 – Gay Science  “La gaya scienza”: Tài khéo Phấn khởi Học thuật Tươi vui (the Joyful, Cheerful Science) – tạm dịch dài dòng dù chỉ một nhan đề, hiểu theo như Kaufmann, hiện giờ tôi nghiêng sang tạm dịch là Học thuật Tươi vui
[10] [Xem phần Phụ Lục.]
[11] Xem Plato, Republic, quyển II, III, và X
[12] The Birth of TragedySự Ra đời của Bi kịch Hylạp (1872) – Die Geburt der Tragödie – tác phẩm xuất bản đầu tay của Nietzsche.
[13] Wissenschaft đúng hơn nên hiểu là học thuật, xem chú thích đoạn trước
[14] Tân ước – Matthew 5.3 “Phước cho kẻ nghèo trong tinh thần; vì tinh thần của họ là vương quốc thiên đàng”
[15] Nicolaus Copernicus (1473–1543) nhà thiên văn và toán học người Poland; Khoảng năm 1508, Copernicus đã khai triển một mô hình thiên văn lấy mặt trời làm trung tâm thay vì trái đất như của Ptolemy vẫn từng trước đây. Khoảng 1514, ông trinh bày mô hình của mình trong Commentariolus. Quyển sách thứ hai của ông, On the Revolutions of the Heavenly Bodies (De revolutionibus orbium coelestium) đã bị hội nhà thờ cấm – nhưng khi ấy ông đã chết nên không bị rắc rối với Vatican như Galileo Galilei. Copernicus được xem như người khai mở cuộc cách mạng khoa học.

[16] Critique of Pure Reason A 289.
Kanr ghi chú “Hai điều làm đầy trí tưởng, mới mãi, tăng mãi, và với kinh sợ, khi càng thường xuyên và càng bền vững suy tưởng về nó   bầu trời đêm đầy sao trên cao và qui luật đạo đức bên trong
[17] agnostic
[18] Gót là một dấu chẩm hỏi (?)
[19] Xavier Doudan – Ximénès Doudan (1800-82) – nhà văn và chính trị gia người Pháp.
[20] Nguyên văn tiếng Pháp – “l’habitude d’admirer l’inintelligible au lieu de rester tout simplement dans l’inconnu” – đúng hơn nên hiểu rộng là – thói quen của sự chuyển đổi những gì mình không biết vào thành một đối tượng của ngưỡng phục tôn thờ, thay vì đáng lẽ cứ chỉ đơn giản giữ yên, ở yên trong sự không biết.
[21] elegantia syllogismi
[22] historiography
[23] Nguyên văn “nada”
[24] Metapolitics: siêu-chính trị: siêu ở đây hiểu như siêu-X có nghĩa là vượt trên, bao gồm X (như metaphysics – siêu hình học): Metapolitics is the politics of politics.  Metapolitics is the systems that constrain and define politics. Metapolitics can refer to the relationship of politics to the larger society: culture, economics, demographics and so forth; the bigger picture. Metapolitics can also refer to an analysis of how politics actually works, including the effects of terminology, mass psychology, dynamics, techniques, etc.
[25] Anarchistica – the anarchists
[26] satyr: thần thoại Hylạp:  sinh vật sông trong rừng nửa người nủa dê, có tai nhọn, sừng ngắn và thích tiệc tùng chè chén, buông thả náo động ồn ào.
[27] Ernest Renan (1823 – 1892), triết gia tôn giáo, sử gia người Pháp, nổi tiếng với tập sách viết về đời Jesus (Life of Jesus).
[28] Thi sĩ trữ tình Hylạp Anacreon (?572-?488 TCN), noted for his short songs celebrating love and wine
[29] “yawning gap of teeth”
[30] eunuchism
[31] Christian-Aryan-Philistine – Philistine có nghĩa bóng là những kẻ phàm phu tục tử, tầm thường, đáng khinh.
[32] charlatanism
[33] Tiếng Đức trong nguyên văn: Nước Đức, nước Đức trên tất cả”: câu mở đầu quốc ca Đức – Haydn viết năm 1841, thành quốc ca năm 1922.
[34] “shaking palsy” Parkinson díease.
[35] Latin trong nguyên văn:  stimulantia
[36] Tiếng Pháp trong nguyên văn:  La religion de la souffrance
[37] Nguyên văn: “Wer hat Muth genug dazu? — wir haben es in der Hand, die ganze Erde zu „idealisiren“!… “Who has courage enough to do so? – We have it in hand, "idealize" the whole earth ...! – Ai có đủ can đảm để làm thế? – Chúng ta có nó trong tay, “ý tưởng hóa” toàn bộ quả đất ....!
Tôi theo bản Cambridge của Carol Diethe như trên, Kaufmann có hơi khác: “Ai có can đảm cho điều đó? – Chúng ta có trong tay chúng ta những phương tiện để “ý tưởng hóa” toàn bộ quả đất!
Nhưng ý của Nietzsche hiển nhiên – ông phẫn nộ cùng toàn bộ idealism ở nước Đức quanh ông (Kant, Hegel) – khởi từ Plato, và sau đó Augustine of Hippo vay mượn làm lý thuyết cho thần học Kitô.
[38] Nguyên văn: “Aber was rede ich von Muth: hier thut Eins nur Noth, eben die Hand, eine unbefangne, eine sehr unbefangne Hand…” – “unbefangne” cũng còn có nghĩa là không thiên vị, khách quan, tự nhiên, không ngần ngại.
[39] Nietzsche đã không hoàn thành công trình này, dù chỉ một phần của nó. Nhưng sau khi ông mất, những ghi chú, bản thảo của ông đã được bà em gái cho xuất bản, (lần đầu 1901, và lần thứ hai với nhiều bổ túc 1906) – và có nhan đề như trên: Ý dục Quyền lực. Nỗ lực về một Đánh giá lại tất cả những Giá trị. Chương thứ hai của Ý dục Qyuền lực là “Về lịch sử của Chủ nghĩa hư vô châu Âu”.
[40] Atheism: chủ nghĩa không-gót; vẫn dịch không rõ nghĩa lắm là “chủ nghĩa vô thần”. Để xác định nội dung chúng ta phải trở về văn hóa, và tín ngưỡng tôn giáo phương Tây – bắt nguồn từ Hylạp: “ἄθεος” – atheos như một thuộc từ là  “tính chất không-có-gót, phủ nhận hiện hữu của gót (godless, denying the gods – god does not exist – atheistic”). Như một danh từ “atheotēs” – chỉ chủ nghĩa, lý thuyết, tư tưởng, chủ trương có nội dung là không-gót (“atheism). Không ở đây là phản với ; không-gót là không-có-gót; (nhấn mạnh để không nhầm lẫn với một nghĩa vô thần khác, cụ thể là trong triết học đạo Phật – ở đây, vô thần có một nghĩa khác – “vô” không nói đến hiện hữu, nhưng nói về tính chất tác động – không nói đến nguyên nhâ, nhưng nhấn mạnh vào hậu quả, nên vô thần trong đạo Phật có nghĩa là không nhận có những tác động từ thần lực, từ những sức mạnh, hay tác nhân siêu nhiên, dù vĩ đại, quyền năng đến đâu, đều không thể tác động đến con người, thế giới con người; hay theo như mong ước, cầu khẩn của con người. Nói rõ hơn, có thể có (hay không-có – không thành vấn đề) những thực thể và những sức mạnh siêu nhiên (như nói trong thần thoại, kể trong Vedas), nhưng những gì liên quan đến sinh mệnh, sự sống con người, đến từ chính chúng ta, không gì đến từ những gì siêu nhiên, vô hình ngoài thế giới hữu hình, tự nhiên của chúng ta.
[41] kernel
[42] Sāṃkhya: một trường phái lâu đời nhất trong sáu trường phái cổ điển đặt nền tảng trên kinh Vedas của truyền thống Ấnđộ. Sāṃkhya nổi tiếng trong triết học Ấnđộ với chủ nghĩa vô thần, mô hình vũ trụ nhị nguyên gồm: puruṣaprakṛti, và Satkaryavada là lý thuyết chủ trương rằng hiệu ứng đã tồn tại-trước trong nguyên nhân của chúng, nghĩa là quả đã tiềm ẩn, đã nằm trong nhân, đã “có” trước tác động nhân quả. Sāṃkhya có ảnh hưởng rất quan trọng đến những trường phái triết học Ấnđộ khác, gồm Yoga, Vedānta, Kashmir Shaivism, và tư tưởng đạo Phật.
Sāṃkhya chủ trương không-gì sinh ra từ một-gì trước đó không có; satkaryavada – “karya” hay hiệu quả thì đã “sat”, hay hiện hữu, ngay cả trước khi có tác động nhân-quả đưa đến hiệu quả tương ứng. Dầu mè đã có trong hột mè, tượng đá đã có trong đá, đậu phụ đã có trong sữa đậu nành. Tác động nhân quả (karakaiyapara) chỉ đem lại sự biểu hiện (avirbhuta), phơi hay khai mở những gì vốn trước đó nằm trong trạng thái không-biểu hiện (tirohita). Nói theo câu hỏi thông thường – gà và trứng gà, cái nào có trước? Theo Satkaryavada, không cái nào có trước cái nào – con gà đã có trong quả trứng gà.
Tôi đi xa hơn cần thiết – chỉ cốt để minh họa rõ ý của Nietzsche về trường phái Sāṃkhya, cho thấy Satkaryavada hiển nhiên là lý thuyết không-gót; vô thần – vì trong cơ bản triết lý của nó  – hoàn toàn phủ nhận một nguyên nhân duy nhất, cuối cùng.
[43] Ở đây, Nietzsche mỉa mai phong trào đòi bình đẳng nữ quyền – đây là một câu hỏi, tại sao một người nhân bản như Nietzsche, sống giữa những phụ nữ thương yêu, đã thiết tha theo đuổi một phụ nữ trí thức, thông minh; sao ông gay gắt với phong trào đòi nữ quyền lúc ấy ở châu Âu?
Tôi tạm giải thích – (a) ông nhìn sự đòi hỏi này là trái với tự nhiên và (b) có liên hệ với Freud .
(a) – phụ nữ có cơ thể khác biệt (tử cung để mang thai – ngực cho sữa) – như thế thuận theo tự nhiên hẳn phải có gì đó trong những biểu hiện sự sống khác biệt với phái nam – đòi cho phụ nữ như phái nam, theo ông có gì phản tự nhiên, làm phụ nữ mất phụ nữ. Dĩ nhiên chúng ta phải đi sâu hơn vào “đòi cho phụ nữ như phái nam” có ngĩa gì, có phải chỉ về phương diện chính trị xã hội mà thôi hay không (bỏ phiều, tranh cử,...)
(b) Đòi nữ quyền bình đảng có thể giải thích theo lý thuyết của Freud bằng mặc cảm “thiếu dương vật” của phụ nữ. Nếu nhìn theo hướng này – đòi nữ quyền bình đẳng là một trong những phản ứng của mặc cảm trẻ thơ này. Tôi cũng hồ nghi giá trị của lý thuyết này – và dĩ nhiên Freud đến sau Nietzsche – nhưng tôi nghĩ cách giải thích của Freud có thể dùng để giải thích Nietzsche – dĩ nhiên để trả lời câu hỏi tại sao, và sự biễn chuyển tư tưởng – không có ý biện minh, và dĩ nhiên không bàn về giá trị – tôi không khẳng định chuyện đúng sai ở đây.
[44] Latin trong nguyên văn – patere legem, quam ipse tulisti
[45] Kaufmann dịch khác đi – “Tại sao tôi đau khổ?” – nguyên văn: “für den Schrei der Frage „wozu leiden?”:  Cho tiếng kêu cảu câu hỏi “Tại sao chịu đau khổ”
[46] tiếng Pháp trong nguyên văn: “‘faute de mieux’ par excellence”.
[47] Nguyên văn: “Die Auslegung — es ist kein Zweifel — brachte neues Leiden mit sich, tieferes, innerlicheres, giftigeres, am Leben nagenderes: sie brachte alles Leiden unter die Perspektive der Schuld…”.
Perspektive der Schuld: the perspective of the guilt – tôi dịch hơi dài dòng để giữ ý mặc dù ông viết cô đặc như suy nghĩ của ông và vần điệu, đẹp như một câu thơ  – “quan điểm lớn rộng, cái nhìn nhiều mặt theo viễn cảnh của sự phạm tội”.
Và câu sau: “Aber trotzalledem — der Mensch war damit gerettet, er hatte einen Sinn, er war fürderhin nicht mehr wie ein Blatt im Winde, ein Spielball des Unsinns, des „Ohne-Sinns“, er konnte nunmehr Etwas wollen, – gleichgültig zunächst, wohin, wozu, womit er wollte: der Wille selbst war gerettet.”
– “Nhưng dù tất cả như thế – con người đã được cứu, hắn đã có một ý nghĩa, từ bây giờ trở đi, hắn không còn giống như một chiếc lá trong gió, như đồ chơi của sự phi lý, của “vô-nghĩa-lý”; từ giờ trở đi, hắn có thể ý chí một gì đó, – bất kể nội dung là gì, tại sao và như thế nào hắn đã làm nó lúc đầu, ý chí tự nó đã được cứu.”

[48] Đây là nguyên văn câu cuối – kết luận bất hủ, nhắc lại ý trong mở đầu luận văn thứ ba này của ông:
“Und, um es noch zum Schluss zu sagen, was ich Anfangs sagte: lieber will noch der Mensch das Nichts wollen, als nicht wollen…”