Sunday, November 20, 2011

Plato - Republic (5)

Plato
The Republic 

(Πλάτων - Πολιτεία)




 QUYỂN 2

(Giản lược)

Không hài lòng với thành quả đã có được ở cuối Quyển 1, Glaucon và Adeimantus đổi mới luận điểm của Thrasymachus. Để đáp lại, Socrates phải cho thấy rằng công lý là xứng đáng được lựa chọn (a) vì chính nó, và (b) vì những hậu quả của nó (357a-358a). Socrates không hoàn tất luận điểm (a) của mình cho cho đến cuối Quyển 9.

Socrates chuyển tranh luận từ công lý cá nhân sang công lý chính trị. Ông mô tả một thành phố lý tưởng, hay thành phố tốt đẹp hoàn toàn - Kallipolis. Sau khi định chỗ của công lý trong nó, ông sẽ tìm công lý trong linh hồn. Thành phố đầu tiên ông mô tả bị Glaucon sa thải bởi như chỉ phù hợp cho những con lợn, không cho dân chúng Athens lịch lãm. Thành phố thứ hai thì sang trọng hơn. Tuy nhiên, trong nó có sự hiện diện của những thèm muốn nhiều hơn những nhu cầu cần thiết được cung cấp trong thành phố đơn giản hơn trước đây của nó, dẫn đến phe phái dân sự và chiến tranh. Để ngăn chặn những điều này đừng phá hủy thành phố, cần có quân đội cảnh sát. Đây là những người giám hộ. Sở hữu tự nhiên và giáo dục cần thiết cho họ sẽ được mô tả tiếp theo. Vì huấn luyện âm nhạc bắt đầu trước huấn luyện thể dục, nội dung của giáo dục âm nhạc, đặc biệt những loại câu chuyện nào mà những người giám hộ tương lai nên nghe về những vị gót và anh hùng là đề mục đầu tiên của chuyện dạy dỗ này (377e).


Tóm tắt chi tiết quyển II
(357a-368c)

Socrates tin rằng ông đã trả lời Thrasymachus đầy đủ, và xong xuôi với thảo luận về công lý, nhưng những người có mặt khác đã không hài lòng với kết luận đi đến. Glaucon, một trong những bạn đồng hành trẻ của Socrates, giải thích những gì họ muốn ông làm. Glaucon tuyên bố rằng tất cả những sự tốt lành có thể được chia thành ba lớp (class) – hay hạng: những điều mà chúng ta mong muốn chỉ vì những hậu quả của chúng, chẳng hạn như huấn luyện thể dục và điều trị y tế, những điều mà chúng ta mong muốn chỉ vì lợi ích riêng của chính chúng, chẳng hạn như niềm vui và, lớp cao nhất, những điều chúng ta mong muốn cả vì lợi ích riêng của chúng và vì những gì chúng ta nhận được từ chúng, chẳng hạn như kiến ​​thức, thị giác, và sức khỏe. Glaucon và những người còn lại mong muốn Socrates chứng minh rằng công lý không chỉ đáng mong muốn, nhưng nó thuộc về lớp cao nhất của những điều đáng mong muốn: những điều mong muốn vì cả hai, vì lợi ích riêng của chúng và hậu quả của chúng.

Glaucon chỉ ra rằng phần đông người ta xếp công lý vào lớp thứ nhất. Họ xem công lý như là một điều ác cần thiết, mà chúng ta để cho mình phải chịu để tránh tà ác lớn hơn sẽ xảy đến với chúng ta nếu chúng ta dứt bỏ hết công lý. Công lý bắt nguồn từ sự yếu đuối và dễ bị tổn thương của con người. Vì tất cả chúng ta đều có thể chịu bất công đến từ lẫn nhau, chúng ta thực hiện một hợp đồng xã hội đồng ý tất cả đều công chính với lẫn nhau. Chúng ta chỉ chịu bị đè dưới gánh nặng của công lý vì chúng ta biết chúng ta sẽ phải chịu khổ sở còn tồi tệ hơn nếu không có nó. Công lý không phải là một gì đó được thực hành vì lợi ích riêng của chính nó, nhưng một gì đó, thoát ra từ sợ hãi và yếu đuối, mà người ta tham gia vào.

Để nhấn mạnh quan điểm của mình, Glaucon gọi đến một thí nghiệm tưởng tượng. Kể lại truyền thuyết về chiếc nhẫn của Gyges. Glaucon yêu cầu chúng ta tưởng tượng có một người công chính được cho một chiếc nhẫn làm cho anh ta vô hình. Một khi đeo chiếc nhẫn này, người này thể hành động một cách bất công mà không sợ bị trả thù, trừng phạt. Không ai có thể phủ nhận, Glaucon tuyên bố, ngay cả hầu hết những người công chính nhất sẽ hành xử một cách bất công, nếu anh ta có chiếc nhẫn này. Anh ta sẽ ngụp lặn trong thỏa mãn tất cả những thúc giục vật chất, thèm khát quyền lực, và xác thịt dâm đãng của mình. Câu chuyện này chứng minh rằng người ta công chính chỉ vì họ sợ sự trừng phạt nếu làm điều bất công. Không có ai công chính vì tự thân công lý là đáng mong muốn.

Glaucon kết thúc bài phát biểu của mình với một cố gắng để chứng minh rằng không phải chỉ là người ta thích làm điều bất công chính thay vì công chính, nhưng với họ làm như vậy là hợp lý. Đời sống hoàn toàn bất công, ông lập luận, là dễ chịu nhiều hơn so với đời sống hoàn toàn công chính. Khi đưa ra tuyên bố này, ông đã vẽ hai bức chân dung chi tiết của người công chính và người bất công. Người hoàn toàn bất công, những người thỏa mãn tất cả những dục vọng của mình, được vinh dự và khen thưởng với sự giàu có. Người hoàn toàn công chính, mặt khác, bị khinh miệt và chịu khốn khổ.

Anh của Glaucon, Adeimantus chen vào và làm vững thêm những lập luận của Glaucon bằng cách tuyên bố rằng không có ai ca ngợi công lý vì lợi ích riêng của nó, nhưng chỉ vì những phần thưởng nó cho phép bạn gặt hái trong thế giới này và thế giới bên kia. Ông nhắc lại yêu cầu của Glaucon, mong Socrates cho thấy công lý được mong muốn trong sự vắng mặt của bất kỳ phần thưởng bên ngoài nào: công lý là đáng mong muốn vì lợi ích tự thân của nó, giống như niềm vui, sức khỏe, và kiến ​​thức.

(368d đến hết)
Kết quả, sau đó, là có hàng hoá phong phú hơn và chất lượng tốt hơn được sản xuất dễ dàng hơn, nếu mỗi người làm một sự việc mà ông ta phù hợp với một cách tự nhiên, làm nó đúng lúc, và được để tự do khỏi những trói buộc phải làm bất kỳ sự việc nào của những người khác.

Socrates thì ngần ngừ phải đối phó với những thách thức rằng công lý là đáng mong muốn trong và của tự thân nó, nhưng những người khác ép ông. Ông đưa ra kế hoạch giải quyết của mình. Có hai loại: công lý chính trị - công lý thuộc về một thành phố hoặc nhà nước - và một thuộc về cá nhân - công lý của một người cụ thể. Vì một thành phố lớn hơn so với một người, ông sẽ tiến hành sau khi giả định rằng sẽ dễ dàng hơn nếu trước tiên tìm công lý ở mức độ chính trị thành phố và sau đó tìm hiểu xem có bất kỳ đạo đức tương tự nào được tìm thấy trong cá nhân. Để xác định vị trí công lý chính trị, ông sẽ xây dựng một thành phố toàn hảo – Kallipolis - từ số không, và sẽ dò xét xem ở chỗ nào và khi nào công lý đi vào trong nó. Dự án này sẽ chiếm trọn The Republic cho đến Quyển IV.

Socrates giới thiệu nguyên tắc nền tảng của xã hội loài người: nguyên tắc phân ngành chuyên môn (specialization). Nguyên tắc chuyên môn phát biểu mỗi người phải thực hiện vai trò mà anh ta là tự nhiên thích hợp tốt nhất và anh ta phải không dính líu xen vào với bất kỳ công việc nào khác. Thợ mộc phải chỉ làm đồ mộc, người nông dân phải chỉ làm ruộng. Đằng sau nguyên tắc này là khái niệm mà con người có những khuynh hướng tự nhiên cần được thỏa mãn. Chuyên ngành đòi hỏi không chỉ là phân công lao động, nhưng sự phân chia như thế là sự phân chia thích hợp nhất. Chỉ bằng cách này, thuyết phục Socrates là tất cả mọi thứ có thể được thực hiện ở cấp độ cao nhất có thể có được.

Sau khi tách bạch nguyên tắc nền tảng của thành phố, Socrates sẵn sàng để bắt đầu xây dựng nó. Vai trò đầu tiên được đưa vào là của những người sẽ cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho đời sống, chẳng hạn như thực phẩm, quần áo, y tế, và chỗ trú ẩn. Thành phố công chính được những thợ thủ công, nông dân, và những y sĩ  cư trú, mỗi người làm công việc của riêng mình và kiềm chế không tham gia vào bất cứ vai trò nào khác. Họ đều là thành viên của những gì Socrates xem là “giai cấp sản xuất”, vì vai trò của họ là để sản xuất những đối tượng để sử dụng.

Socrates cuộc gọi thành phố này “thành phố lành mạnh” vì nó chỉ được những ham muốn thiết yếu cai quản. Trong thành phố lành mạnh, chỉ có những người sản xuất, và những người sản xuất này chỉ sản xuất những gì là tuyệt đối cần thiết cho đời sống. Glaucon nhìn thành phố này ít tử tế hơn, gọi nó là một “thành phố của loài lợn”. Ông chỉ ra rằng một thành phố như vậy là không thể có được. Người ta có những ham muốn không thiết yếu cũng như những những ham muốn thiết yếu. Họ khao khát thức ăn phong phú, môi trường xung quanh sang trọng, và nghệ thuật.

Giai đoạn tiếp theo là chuyển đổi thành phố này cho sang trọng, hoặc “thành phố sôi động”. Một khi những xa xỉ được đặtt hành nhu cầu, những vai trò như diễn viên, nhà buôn, nhà thơ, thày dạy kèm, và những người làm đẹp được tạo ra. Tất cả sự giàu có này nhất thiết sẽ dẫn đến chiến tranh, và do đó, một giai cấp chiến sĩ là cần thiết để giữ hòa bình trong thành phố và bảo vệ nó khỏi những lực lượng bên ngoài. Những người làm những công việc sản xuất không thể hoạt động như những chiến binh cho chúng ta, vì như thế sẽ vi phạm nguyên tắc chuyên môn hóa của chúng ta.

Socrates dành phần còn lại của quyển sách này, và gần hết quyển III tiếp theo, để nói về bản chất và giáo dục của những chiến binh này, những người mà ông gọi là những “giám hộ”. Điều rất quan trọng là những giám hộ phải được phát triển cân bằng giữa sự dịu dàng và cứng rắn. Không phải là côn đồ, cũng không có thể là nhu nhược và bất lực. Những thành viên của giai tầng này phải được lựa chọn cẩn thận - những người phải có đúng bản chất hay đúng tâm lý bẩm sinh thích hơp. Đặc biệt, người giám hộ nên có tinh thần, yêu danh dự, có triết học, hoặc yêu tri thức, và có thể chất mạnh mẽ và nhanh nhẹn.

Bản chất tự nhiên là không đủ để tạo nên những giám hộ. Tự nhiên phải được bảo vệ và tăng cường bằng giáo dục. Giáo dục cho những giám hộ sẽ bao gồm huấn luyện thể dục cho cơ thể, và huấn luyện âm nhạc, thơ ca cho linh hồn. Giáo dục cho những giám hộ là khía cạnh quan trọng nhất của thành phố. Nó là quá trình thanh lọc, thông qua đó thành phố sang trọng, không lành mạnh, có thể được thanh lọc và tinh thuần. Vì giáo dục những giám hộ rất quan trọng như thế, Socrates dẫn chúng ta qua tiến trình đó hết sức chi ly tỉ mỉ.

Ông bắt đầu bằng việc mô tả loại những chuyện kể nào sẽ được cho phép trong thành phố. Những câu chuyện kể cho những giám hộ trẻ-đang-khi-huấn luyện, ông cảnh cáo, phải giám sát chặt chẽ, vì chủ yếu là những câu chuyện mà định dạng linh hồn của một đứa trẻ, giống đúng như cha mẹ cho hình dạng cơ thể của con trẻ. Phần còn lại của quyển II, do đó, là một thảo luận về những chuyện về những vị gót sẽ được cho phép kể. Socrates nêu lên hai luật để quản lý sự thuật kể những câu chuyện như vậy. Trước tiên, những vị gót phải luôn luôn được thể hiện hoàn toàn đúng và chỉ chịu trách nhiệm cho những gì là tốt trong thế giới. Nếu những vị gót được trình bày khác đi (như chiến tranh, âm mưu thông đồng, nhân vật giết người như họ được mô tả trong thơ truyền thống), trẻ em chắc chắn sẽ lớn lên tin rằng những hành vi này được phép, thậm chí còn đáng ngưỡng mộ. Thứ hai, những vị gót không thể được trình bày như là những phù thủy, như những người có thể biến hóa bản thân thành những dạng khác nhau, hoặc như những kẻ nói dối. Nếu không, trẻ em sẽ lớn lên sẽ không có một sự tôn kính thích đáng với sự thật và sự trung thực.

Phân tích sơ khởi quyển II
(357a-368c)

Theo gót Thrasymachus đã tấn công công lý trong Quyển I, những điểm Glaucon và Adeimantus nêu lên - lý thuyết hợp đồng xã hội về công lý và ý tưởng xem công lý như một thứ tiền tệ để để mua phần thưởng trong thế giới bên kia - thúc đẩy mạnh hơn những thách thức Socrates phải đối mặt với để chứng minh giá trị của công lý. Với khá nhiều những ý tưởng khác nhau về công lý đã bị phá mất uy tín, tại sao Plato tiếp tục làm phức tạp thêm vấn đề trước khi Socrates có cơ hội để phác thảo ý tưởng của mình về công lý?

Lý do thứ nhất là phương pháp: luôn luôn là hay nhất để bảo đảm rằng vị trí bạn đang tấn công là một trong những vị trí mạnh nhất có thể có được cho đối thủ của bạn. Plato không muốn những người theo chủ nghĩa phi luân (immoralist) có thể quay trở lại và nói, “nhưng công lý chỉ là một hợp đồng xã hội” sau khi ông đã cẩn thận kéo đổ tuyên bố cho công lý là lợi thế của kẻ mạnh mẽ hơn. Ông muốn bảo đảm rằng trong việc bảo vệ công lý, ông phá vỡ vụn tất cả những luận chứng tốt nhất của những người phái phi luân.
Sự tích lũy thêm những ý tưởng nữa về công lý có thể là chủ định để chứng minh phương pháp tiếp cận mới của Plato với triết học. Trong những đàm thoại ban đầu, những trò chuyện của Socrates - thường tranh luận với những nhà Sophist, nhưng Thrasymachus là nhà sophist cuối cùng chúng ta thấy Socrates tranh cãi với. Từ giờ về sau, chúng ta không bao giờ thấy Socrates tranh luận với những người có những giá trị sai lầm khác biệt sâu xa. Có một sự tách khỏi kỹ thuật chất vấn nhưng không kết luận - elenchusaporia -  để hướng về những nỗ lực xây dựng hơn trong sự tạo dựng lý thuyết.

The Republic được viết trong một giai đoạn chuyển tiếp trong chính cuộc đời của Plato. Ông đã vừa thành lập học viện Academy, nơi những người chú tâm vào học hỏi có thể rút lui khỏi đời sống công cộng và đắm mình trong nghiên cứu triết học. Trong đời ông, Plato đã từ bỏ lý tưởng - đi đến những chốn đông đảo công cộng để đặt câu hỏi với tất cả mọi người trên đường phố - của Socrates, và trong những văn bản của mình, ông đã từ bỏ những người đàm thoại sophist, và đã chuyển sang với những người tham dự đàm thoại, như Glaucon và Adeimantus, được chọn lựa kỹ càng và chuẩn bị cẩn thận. Trong những đàm thoại, họ thường là học trò của chính Socrates.

Plato đã quyết định vào thời điểm này rằng triết học chỉ có thể tiến hành nếu nó trở thành một nỗ lực hợp tác và xây dựng. Đó là lý do tại sao trong đời sống riêng mình, ông đã thành lập Academy, và trong những tác phẩm của ông, đã kết hợp Socrates với những người trò truyện tâm đắc, thiết tha học hỏi, thành tâm đi tìm kiến thức. Glaucon và Adeimantus lặp lại những thách thức vì họ đang nhận lấy vai trò là những người đàm thoại đối diện thân hữu. Thảo luận với Thrasymachus sophist có thể chỉ dẫn đến aporia. Nhưng trò chuyện với Glaucon và Adeimantus có tiềm năng dẫn đến những kết luận tích cực.

Điều này xem có vẻ giống như một phản bội lại sứ mệnh của thày dạy của mình, nhưng Plato có lẽ có lý do tốt cho sự chuyển đổi gốc rễ này. Sự đối diện luận bàn với những kẻ thù tự nó có những giới hạn nghiêm trọng. Nếu quan điểm của bạn khác nhau hoàn toàn với những người đàm thoại với bạn, không có thể có tiến bộ thực sự. Nhiều nhất, bạn chỉ có thể làm suy yếu những quan điểm của người này hay người kia khác, nhưng bạn không bao giờ có thể cùng họ xây dựng được một lý thuyết tích cực.

(368d-hết)
Nguyên tắc cơ bản của giáo dục, trong khái niệm của Platon, rằng linh hồn, - hay tinh thần, hay hồn con người - giống như cơ thể, có thể có cả trạng thái lành mạnh và không lành mạnh. Giống cơ thể, tình trạng này được xác định bởi những gì linh hồn tiêu thụ và những gì nó làm. Giáo dục xác định những hình ảnh nào và ý tưởng nào linh hồn được phép nhận lấy, tiêu thụ và những hoạt động nào linh hồn có thể và không thể tham gia. Vì linh hồn luôn luôn tiêu thụ, kích thích có sẵn trong thành phố phải được kiểm soát cứng rắn. Plato so sánh linh hồn với con cừu, không ngừng gặm cỏ. Nếu bạn đặt bầy cừu trong một vùng đồng cỏ bị nhiễm độc, và chúng ăn cỏ này từng chút một, cuối cùng chúng sẽ bệnh và chết. Tương tự, nếu bạn bao quanh một tâm hồn với những ảnh hưởng bất thiện, sau đó dần dần tâm hồn sẽ thấm nhiễm chúng và bệnh hoạn. Vì lý do này, Plato không tự hạn chế chỉ ra lệnh những môn học cụ thể nào sẽ được dạy cho những người giám hộ, mà còn ấn định những nội dung gì sẽ được phép đem vào đời sống văn hóa của thành phố như một toàn thể. Những giám hộ, giống như tất cả những người khác, liên tục hấp thụ những hình ảnh. Nói về mặt thực tế, có rất ít sự khác biệt giữa chương trình học chính thức và đời sống văn hóa của thành phố nói chung.

Plato quy định mệnh lệnh nghiêm khắc liên quan đến đời sống văn hóa của thành phố. Ông bác bỏ tất cả những bài thơ, với ngoại lệ của những bài gót ca (hymns) về những vị gót, và những tụng ca (eulogy) về những nhân vật nổi tiếng, và những nơi phải hạn chế về lĩnh vực hội họa và kiến ​​trúc. Mặc dù Plato tỏ ý tiếc những hy sinh này về mỹ thuật, ông cảm thấy phải thực hiện chúng, vì lợi ích của giáo dục, biến đổi thành phố sang trọng không lành mạnh thành một thành phố tinh khiết và công chính. Làm thế nào để nó làm điều này? Câu trả lời sẽ không trở thành rõ ràng cho đến khi chúng ta hiểu công lý chính trị là gì.
Chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi ở điểm này không biết có phải chỉ giáo dục của những giám hộ là rất quan trọng hay thôi không. Nếu giáo dục định đoạt liệu một linh hồn bệnh hoạn hay lành mạnh, chúng ta không quan tâm đến linh hồn của những thành viên khác trong xã hội hay sao? Câu trả lời, có lẽ, chúng ta có quan tâm về giáo dục cho tất cả những linh hồn, nhưng vì chúng ta đang tập trung vào xây dựng những điều tốt đẹp cho thành phố, chúng ta chỉ quan tâm đến những gì sẽ ảnh hưởng đến những thành phố như một toàn thể. Vì cách thức thành phố của chúng ta đã được thiết lập, với những tầng lớp sản xuất được loại trừ khỏi đời sống chính trị, nên giáo dục của họ không phải là quan trọng đối với lợi ích của thành phố như giáo dục của những giám hộ. Mặc dù giáo dục là quan trọng đối với tất cả mọi người, giáo dục cho những người sản xuất, sẽ tập trung phát triển những kỹ năng thích ứng cho nghề nghiệp chuyên ngành, chúng không liên quan đến lợi ích của thành phố như một toàn thể. Khi thảo luận lần lượt những câu hỏi về cá nhân, Socrates sẽ xác định một trong những mục tiêu chính của thành phố là giáo dục toàn bộ dân chúng cho đến mức dân chúng có thể giáo dục được.



QUYỂN 2

SOCRATES kể tiếp tục:

Khi tôi đã nói điều này, tôi nghĩ rằng tôi đã xong xuôi với cuộc thảo luận. Nhưng tất cả hóa ra chỉ là một khúc dạo đầu, như nó đã là. Bạn thấy đấy, Glaucon, người luôn luôn rất quả cảm trong tất cả mọi thứ, trong dịp này đã từ chối, cũng vậy, không chấp nhận sự đầu hàng của Thrasymachus. Thay vào đó, anh nói:

Có phải có vẻ ông muốn chúng tôi như đã bị thuyết phục, Socrates, rằng trong mọi cách, tốt hơn là công chính chứ không là không công chính, hay có phải ông muốn thực sự thuyết phục chúng tôi về điều này?
SOCRATES: Tôi muốn thực sự thuyết phục các bạn, nếu tôi có thể.
GLAUCON: Vâng, vậy ông chắc chắn không đang làm những gì ông muốn. Cho tôi biết, ông có nghĩ rằng có một loại tốt lành chúng ta đón chào, không phải vì chúng ta mong muốn những hậu quả của nó, nhưng chúng ta đón chào nó vì lợi ích của tự nó - lấy thí dụ, sự thích thú và tất cả những thú vui vô hại mà từ chúng không có gì là kết quả nào sau đó vượt ra ngoài sự thích thú là có chúng?
SOCRATES: Chắc chắn, tôi nghĩ rằng có một điều như vậy.
GLAUCON: Và có phải có một loại tốt lành, chúng ta yêu thích vì lợi ích của tự thân nó, và cũng vì lợi ích từ hậu quả của nó, lấy thí dụ, sự hiểu biết và sự nhìn thấy, và sự được khỏe mạnh? Vì chúng ta chào đón những điều như vậy, tôi tưởng tượng, trên cả hai điều vừa kể.
SOCRATES: Đúng.
GLAUCON: Và có phải ông cũng nhận ra một loại [1] tốt lành thứ ba, chẳng hạn như huấn luyện thể dục, điều trị y tế khi bị bệnh, tự thân ngành y khoa, hoặc cách làm ra tiền nói chung? Chúng ta sẽ nói rằng chúng là những gánh nặng phiền toái nhưng mang lại lợi ích cho chúng ta, và chúng ta sẽ không chọn chúng vì lợi ích riêng của chúng, nhưng vì lợi ích của những phần thưởng của chúng và những hậu quả khác.
SOCRATES: Có, chắc chắn, có loại thứ ba này. Nhưng chúng là gì?
GLAUCON:  Ông đặt công lý vào loại nào trong chúng?
SOCRATES: Bản thân tôi đặt nó vào loại tốt đẹp nhất - một loại mà bất cứ ai là người sẽ được hưởng may mắn với hạnh phúc phải yêu vì cả chính nó và hậu quả của nó.
GLAUCON: Đó không phải là những gì đám đông dân chúng nghĩ. Ngược lại, họ nghĩ rằng nó là loại gánh nặng: loại phải được thực hành vì lợi ích của những phần thưởng và được dư luận [2] biết đến như là những thành quả của một danh tiếng tốt, nhưng đó là để tránh  đi như bản chất nội tại là gánh nặng.

(Thế nào là Bảo vệ Công lý)

SOCRATES: Tôi biết đó là quan điểm tổng quát. Thrasymachus đã từng buộc tội công lý và ca ngợi bất công trên những nền tảng này trong một thời gian. Nhưng nó vẻ như là tôi là một người học chậm chạp.
GLAUCON: Thôi nào, vậy cũng lắng nghe những gì tôi nói, và xem liệu ông vẫn có vấn đề đó hay không. Ông thấy đấy, tôi nghĩ rằng Thrasymachus đã buông bỏ trước khi ông ta phải làm thế, như thể ông ta là một con rắn đã bị ông mê hoặc. Tuy nhiên, với cách suy nghĩ của tôi, vẫn không có chứng minh  nào cả từ hai phía. Vì tôi muốn nghe công lý là gì và bất công là gì, và sức mạnh nào mỗi bên có khi chỉ chính mình  nó có trong linh hồn. Tôi muốn tách rời giải thích về phần thưởng và những hậu quả của mỗi bên trong chúng.
Vì vậy, nếu ông đồng ý, tôi sẽ đổi mới luận chứng của Thrasymachus. Thứ nhất, tôi sẽ phát biểu loại nào của những sự vật mà người ta xem là công lý, và nguồn gốc của nó là gì. Thứ hai, tôi sẽ tranh luận rằng tất cả những ai thực hành nó miễn cưỡng, như là một một gì đó cần thiết, không phải là một gì đó tốt. Thứ ba, tôi sẽ lập luận rằng họ có lý do tốt đẹp để hành động như họ hành động. Đối với đời của người không công chính, họ nói, tốt hơn nhiều so với của người công chính.
Đó không phải là, Socrates, bản thân tôi tin vào bất kỳ điều nào trong số chúng. Tôi bị lúng túng bối rối, thực vậy, và tai tôi như điếc hẳn sau khi nghe Thrasymachus và vô số những người khác. Nhưng tôi vẫn chưa nghe được ai bảo vệ công lý theo cách tôi muốn, như tốt hơn nhiều so với bất công. Tôi muốn nghe ca ngợi nó trên tự thân nó, và tôi nghĩ rằng có thể xảy ra nhất là tôi học hỏi điều này từ ông. Đó là lý do tại sao tôi sẽ nói dài dòng để khen ngợi về đời sống không công bằng: bằng cách làm như vậy, tôi sẽ cho thấy được cách tôi muốn nghe ông ca ngợi công lý và tố cáo sự bất công. Nhưng xem liệu ông có muốn tôi làm những gì tôi đang nói hay không.
SOCRATES: Tôi muốn hầu hết tất cả điều đó. Thật vậy, còn chủ đề nào một người với bất kỳ ý thức nào có thể thích nói chuyện và nghe chuyện về nó thường xuyên hơn nữa?
GLAUCON:  Những tình cảm tuyệt vời. Bây giờ, hãy lắng nghe những gì tôi nói tôi sẽ thảo luận trước tiên - công lý là giống như những gì, và nguồn gốc của nó là gì. Người ta nói, ông thấy, rằng làm điều bất công là tự nhiên tốt đẹp và phải chịu đựng sự bất công là xấu. Nhưng sự xấu tệ từ gánh chịu khổ đau thì vượt quá mức sự tốt đẹp khi làm nó. Do đó, những ai là người đã làm và phải chịu đựng sự bất công và những ai là người đã nếm trải cả hai - những người không đủ quyền lực để làm điều đó và để tránh khỏi đau khổ vì nó – đã quyết định rằng nó là lợi nhuận để đi đến thỏa thuận với nhau không làm bất công cũng không phải chịu đựng nó. Kết quả là, họ bắt đầu làm những điều luật và những giao ước, và những gì pháp luật ra lệnh, họ gọi là hợp pháp và công chính. Điều đó, họ nói, là nguồn gốc và thực chất đích thực của công bằng. Nó là ở giữa là tốt nhất và tồi tệ nhất. Tốt nhất là bất công mà không phải trả hình phạt,  tồi tệ nhất là chịu đau khổ đó mà không có khả năng có thể trả thù. Công lý là ở giữa hai thái cực này. Người ta yêu nó, không phải vì nó là một điều tốt, nhưng vì họ quá yếu để gây bất công mà không bị trừng phạt. Một người nào đó có quyền lực để làm nó - một người nào đó là một người thực sự - tuy nhiên sẽ không làm một thỏa thuận với bất cứ ai, không làm bất công, cũng chẳng phải chịu đựng nó. Đối với ông, đó sẽ là điên rồ. Đó là bản chất của công lý, Socrates, theo lập luận, và đó là những gì là những nguồn gốc tự nhiên của nó.
Chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng nhất rằng những ai là người thực hành nó làm như vậy một cách miễn cưỡng, vì họ thiếu quyền lực để làm điều bất công, nếu chúng ta tưởng tượng thử nghiệm tư tưởng sau đây. Giả sử chúng ta cho phép người công chính và người không công chính được tự do để làm bất cứ điều gì họ thích. Chúng ta sau đó có thể theo dõi cả hai trong số họ, và xem ham muốn của họ sẽ dẫn họ đến đâu. Và chúng ta sẽ bắt quả tang người công chính, đi trên cùng một con đường với người bất công. Lý do cho điều này là mong muốn làm cho hơn [3] những người khác. Đây là những gì tất cả sinh vật tự nhiên theo đuổi một cách tự nhiên như là tốt. Nhưng vì pháp luật [4] và sức mạnh, nó làm cho đi chệch khỏi con đường này và tôn vinh sự bình đẳng.
Họ đặc biệt là sẽ có tự do mà tôi đang nói đến, nếu như họ đã có khả năng vốn tổ tiên của Gyges người xứ Lydia được nói là đã có [5].  Câu chuyện kể rằng ông là một người chăn cừu trong đám hầu cận của vua xứ Lydia. Có một cơn giông cuồng bạo, và một trận động đất đã phá vỡ nứt mặt đất và tạo ra một vực thẳm ngay tại địa điểm nơi ông đang chăn bầy cừu của ông. Thấy điều này, với đầy kinh ngạc, ông đã đi xuống vực. Và ở đó, ngoài nhiều thứ tuyệt vời khác mà chúng ta được nghe câu chuyện kể lại, ông ta thấy một con ngựa bằng đồng rỗng ruột. Nó có tựa giống một cửa số mở ra, Liếc xem xét, ông thấy một xác chết, kích thước dường lớn hơn con người, không mặc gì cả, chỉ trừ một chiếc nhẫn vàng trên ngón tay. Ông tháo lấy nhẫn và ra khỏi vực thẳm. Ông đeo chiếc nhẫn tại buổi họp hàng tháng thông lệ của những mục đồng để báo cáo với nhà vua về tình trạng đàn cừu. Và khi ông đương ngồi giữa những người khác, đã xảy ra chuyện ông xoay mặt nhẫn về phía mình, về mặt trong của bàn tay mình. Khi ông làm điều này, ông trở thành vô hình với những người ngồi gần ông, và họ tiếp tục nói chuyện như thể ông đã đi khỏi rồi. Ngạc nhiên trước điều này, và ông dùng ngón tay xoay lại chiếc nhẫn, quay nó hướng lại ra bên ngoài, và ông trở thành có thể được nhìn thấy. Như thế, ông đã thí nghiệm với chiếc nhẫn để xoát xem nó thực có khả năng này hay không - và nó đã có. Nếu ông quay mặt nhẫn vào bên trong, ông đã trở thành vô hình, nếu ông quay nó ra phía ngoài, ông lại trở thành hữu hình. Liền sau khi nhận ra điều này, ông đã sắp xếp để trở thành một trong những sứ giả được gửi về báo cáo với nhà vua. Khi về đến đó, ông đã quyến rũ vợ nhà vua, tấn công nhà vua với sự giúp đỡ của bà này, rồi giết chết nhà vua, và bằng cách này đã chiếm quyền trị vì vương quốc.
Chúng ta hãy giả sử, sau đó, có hai chiếc nhẫn như vậy, một được người công chính đeo, và một được người không công chính đeo. Bây giờ, có vẻ như không có ai, sẽ là không thành không-công chính, khiến ông ta sẽ ở lại trên con đường của công lý, hoặc giữ mình cho tránh xa với những tài sản của người khác, và không chạm đến chúng, trong khi ông ta có thể lấy bất cứ gì ông muốn bán ngoài chợ mà không bị trừng phạt, đi vào nhà của người ta và ăn nằm với bất cứ ai ông muốn, giết chết hoặc thả khỏi nhà tù bất cứ ai ông muốn, và làm tất cả những điều khác mà sẽ có thể làm cho ông ta giống như một vị gót giữa loài người. Và trong khi hành xử như vậy, ông sẽ không làm một cách khác biệt nào so với người không công chính, nhưng cả hai sẽ theo đuổi cùng một hành trình tương tự.
Điều này, một số người sẽ nói, là bằng chứng mạnh mẽ rằng không có ai là công chính tự sẵn lòng, nhưng chỉ khi bị bắt buộc. Không ai tin công lý là một điều tốt khi nó bị giữ kín trong riêng tư, vì bất cứ khi nào một trong hai người nghĩ rằng ông ta có thể làm điều bất công mà không bị trừng phạt, thì ông ta làm. Thật vậy, tất cả mọi người tin rằng bất công lợi nhuận rất nhiều cho bản thân hơn là công lý. Và những gì họ tin là đúng, như thế những người ủng hộ lập luận này sẽ nói. Đối với một người không muốn làm điều bất công, nếu đem cho cơ hội loại như thế này, và người đã không muốn chạm vào tài sản người khác, họ bị tất cả mỗi người trong những người nhận thức được tình trạng này sẽ nghĩ họ là người khốn khổ nhất và ngu ngốc nhất. Mặc dù, dĩ nhiên, họ sẽ đề cao ông ta trong công cộng, lừa dối nhau vì sợ sự đau khổ phải chịu đựng sự bất công. Như thế đã quá nhiều cho chủ đề thứ hai của tôi. 
Về phần chính sự quyết định về đời sống của cả hai mà chúng ta đang thảo luận, nếu chúng ta đem tương phản những cực đoan của công lý và bất công, chúng ta sẽ có khả năng tạo quyết định một cách chính xác, nhưng nếu chúng ta không, chúng ta sẽ không làm. Vậy, sau đó, sự tương phản là gì mà tôi có trong đầu?  Nó là điều này: chúng ta sẽ không trừ gì đi từ sự bất công của người bất công và không gì từ công chính của một người công chính. Ngược lại, chúng ta sẽ để mỗi người là toàn hảo trong việc theo đuổi của riêng họ. Đầu tiên, sau đó, chúng ta hãy để người bất công hành động như một người có kỹ thuật thông minh. Một thuyền trưởng nổi tiếng của con tàu hoặc một y sĩ, Lấy thí dụ, biết sự khác biệt giữa những gì kỹ năng của mình có thể và không thể làm. Ông thử làm điều đầu tiên, nhưng để cho điều thứ hai xảy ra. Và nếu như xảy ra trường hợp ông ta thay đổi, ông ta có thể sửa sự việc cho thành đúng. Trong cùng một cách, nếu ông ta là hoàn toàn bất công, hãy để cho người bất công đúng đắn chính xác nỗ lực làm hành vi bất công và vẫn không bị khám phá. Một ai nếu có để bị bắt nên nghĩ là vụng về. Vì cực đoan của sự bất công là được tin tưởng nó là công chính mà thực sự không là như vậy. Và người hoàn toàn bát công của chúng ta phải được đem cho sự bất công hoàn toàn -  phải không gì bị trừ khỏi từ nó. Chúng ta phải cho phép điều đó, trong khi làm sự bất công lớn nhất, ông đã dẫu sao đã đem lại cho chính mình có danh tiếng lớn nhất với công lý. Nếu như xảy ra ông phạm lầm lẫn, ông ta phải có khả năng chữa nó thành đúng, hoặc là qua khả năng của chính ông để nói sao cho thuyết phục nếu như có bất kỳ một hoạt động bất công nào của ông bị khám phá, hoặc sử dụng sức mạnh nếu sức mạnh là cần thiết, vì ông ta thì can đảm và mạnh mẽ và đã được cung cấp cho chính ông với sự giàu có và những bạn hữu.
Sau khi giả thuyết có một người như vậy, bây giờ đặt người công chính cạnh ông ta trong lập luận của chúng ta – một người nào đó là người đơn giản và cao thượng, và là một người như Aeschylus nói, không muốn được tin tưởng là tốt, nhưng là như thế [6]. Chúng ta phải lấy đi danh tiếng của ông ta. Vì một danh tiếng về công lý sẽ mang lại cho ông danh dự, và những phần thưởng, như thế nó sẽ không được rõ ràng không biết ông là công chính vì chính lợi ích của công lý, hoặc vì lợi ích của những danh tiếng và phần thưởng. Chúng ta phải lột ông sạch tất cả mọi thứ chỉ trừ công chính, và làm cho tình trạng của ông ngược lại với của người không công chính. Mặc dù ông không làm điều bất công, nhưng phải có tai tiếng lớn nhất về nó, như thế để ông ta có thể được thử thách về mặt công lý bằng cách xem thấy liệu không biết ông có thể chịu được hay không một tai tiếng xấu và hậu quả của nó. Hãy để ông ta ở lại như thế, không thay đổi, cho đến khi ông chết – công chính, nhưng tất cả đời sống của ông được tin là không công chính. Bằng cách này, cả hai sẽ đạt được những cực đoan, một công chính và một không công chính, và chúng ta sẽ có thể phán đoán ai trong họ là hạnh phúc hơn.
SOCRATES: Ối chà! Glaucon thân mến của tôi, mạnh mẽ biết chừng nào bạn đã tẩy bóng từng người trong cuộc đọ sức của chúng ta, giống đúng như bạn có một hai pho tượng trong một cuộc thi tài nghệ thuật.
GLAUCON: Tôi cố làm tốt nhất đến mức tôi có thể. Vì cả hai là như tôi đã mô tả, trong bất kỳ trường hợp nào, nó sẽ không phải là khó khăn để hoàn thành sự giải thích về loại đời sống vốn chờ đợi với mỗi người trong họ, nhưng nó phải được thực hiện. Và nếu những gì tôi nói nghe có thô lỗ, Socrates, hãy nhớ rằng đó không phải tôi là người nói, nhưng là những người ca ngợi sự bất công với sự thua thiệt cho công lý. Họ sẽ nói rằng người công chính trong hoàn cảnh như vậy sẽ bị đem đánh bằng roi, căng dài trên giá, bị xích, bị làm mù mắt với một thanh sắt nóng đỏ, và cuối cùng, sau khi ông ta đã phải chịu đựng tấ cả mọi loại những khổ hại, ông sẽ bị đâm, và sau đó sẽ nhận ra rằng người ta không nên muốn là công chính, nhưng là được tin là công chính. Thật vậy, những lời của Aeschylus là áp dụng hết sức chính xác với người bất công. Đối với những người sẽ nói rằng nó thực sự là người không công chính mới là người không muốn được tin là không công chính, nhưng thực sự là như vậy, vì ông căn cứ thực hành của ông trên sự thật về những sự vật và không để cho danh tiếng điều chỉnh cuộc sống của mình. Ông là một trong những người “gặt hái một rãnh sâu trong não thức của mình, nơi những lời khuyên khôn ngoan đã gieo hạt giống”.  Đầu tiên, ông cai trị thành phố của mình vì danh tiếng của ông với công lý. Tiếp theo, ông kết hôn vào bất kỳ gia đình nào ông muốn, Đem gả con cái của ông với bất cứ ai ông ta muốn, tạo những hợp đồng và kết hợp quan hệ với bất cứ ai ông muốn, và, bên cạnh việc chính ông hưởng lợi trong tất cả những cách thức  này, ông lợi nhuận vì ông không có ngại ngần nào về sự làm những bất công. Trong cứ cuộc thi nào, công cộng hay tư nhân, ông là người chiến thắng và làm tốt hơn hơn so với những kẻ thù của mình. Và bằng cách làm tốt hơn, nhiều hơn họ, ông trở nên giàu có, mang lại lợi ích cho bạn bè của mình, và tác hại những kẻ thù của mình. Ông đã dâng những hiến sinh đầy đủ với những vị gót và thiết lập những lẽ cúng kiếng lộng lẫy cho họ - và tốt hơn nhiều trong chăm sóc cho những vị gót, và thực sự, cho những người ông  chuộng thích - hơn người công chính. Như thế, ông có thể có lý có thể mong đợi rằng những vị gót, đến lượt, sẽ yêu thích ông ta nhiều hơn so với người công chính. Đó là lý do tại sao họ nói, Socrates, rằng những vị gót và con người cung cấp một cuộc sống tốt hơn cho người bất công hơn là so với một  người công chính.

Khi Glaucon đã nói điều này, tôi đã có nó trong đầu để trả lời, nhưng Adeimantus anh của Glaucon đã chen vào:
Ông có chắc chắn không nghĩ rằng luận chứng đã được phát biểu thỏa đáng hay không?

(Thế nào là không bảo vệ Công lý)

SOCRATES: Tại sao tôi lại không?
ADEIMANTUS: Điểm quan trọng nhất đã không được đề cập đến.
SOCRATES: Tốt, sau đó, như tục ngữ nói, anh em phải bảo bọc lẫn nhau [7]. Vì vậy, nếu Glaucon đã bỏ thiếu một một gì đó, bạn phải giúp anh ta. Mặc dù, dẫu mức nào về phần tôi, những gì anh đã nói là khá đủ để ném tôi vào bức tranh và làm cho tôi không đủ khả năng để  đi đến trợ giúp cho công lý.
ADEIMANTUS: Chẳng nghĩa lý gì cả. Nhưng cũng hãy lắng nghe nhiều hơn nữa những gì tôi phải nói. Ông thấy đấy, ngõ hầu làm rõ những gì Glaucon có trong đầu, chúng ta cũng nên thăm dò đầy đủ luận chứng trái ngược với những gì anh ta đã cho - những gì đã ca ngợi công lý và miệt thị sự bất công.
Như ông đã biết, khi những người cha nói với những đứa con trai của họ, đem lời khuyên bảo họ, họ nói là người ta phải công chính, cũng làm giống như tất cả những người có những đứa con khác mình phải phụ trách. Nhưng họ không ca ngợi tự thân công lý, nhưng chỉ danh tiếng tốt nó mang lại: nguyên nhân xui khiến họ đem cho là nếu như chúng ta được nổi tiếng là công chính, sau đó, như kết quả của danh tiếng của chúng ta, chúng ta sẽ nhận được những chức vụ chính trị, những hôn nhân tốt, và tất cả các những điều mà Glaucon vừa mới cho biết rằng người công chính sẽ nhận được như là kết quả của có một danh tiếng tốt.
Nhưng những người này thậm chí còn có nhiều hơn nữa để nói về những hậu quả của sự nổi danh. Vì bằng cách ném vào tư cách được những vị gót nghĩ hay tốt về họ, họ có rất nhiều những điều tốt đẹp để nói về  - tất cả những những người những vị gót được cho là đem cho những ai là người là đạo hạnh. Lấy thí dụ, vị cao thượng Hesiod [8] và Homer [9] nói những sự việc như vậy. Vì Hesiod nói rằng những vị gót làm cho những cây sồi “trổ đầy quả ở trên đỉnh, đầy những ong ở giữa, và cừu xoắn lông nặng với len dày” cho những ai là người công chính, và kể nhiều những sự việc tốt khác giống như những điều này [10]. Và Homer nói rất giống cùng một điều như nhau:
Khi một nhà vua tốt, trong đạo hạnh của mình,
Duy trì công lý, đất đen trồi
Lúa mì và lúa mạch cho ông, và cây cối ông nặng quả,
Cừu ông sinh sản chiên con không sai và biển ông sinh hoa lợi đầy cá. [11]
Musaeus [12] và con trai của ông tuyên xưng rằng những vị gót cho người công chính những điều tốt lành thậm chí còn thú vị hơn những điều này. Trong giải thích của họ, họ dẫn những người công chính xuống cõi âm của Hades, đặt những người này ngồi trên ghế nệm, cung cấp cho họ một dạ tiệc gồm những người đạo hạnh, đội hoa kết vòng cho họ, và làm cho họ dành tất cả thời giờ trong sự uống rượu - như họ nghĩ rằng say rượu vĩnh viễn là bổng lộc tốt đẹp nhất cho đức hạnh. Những người khác còn kéo dài hơn nữa bổng lộc mà đức hạnh nhận được từ những vị gót. Vì họ nói rằng một người là đạo hạnh và giữ những lời hứa của mình, để lại con cháu của mình và toàn bộ cuộc thi đua ở phía sau.
Trong những cách này và những cách tương tự khác, họ ca ngợi công lý. Nhưng kẻ không đạo hạnh và  không công chính  họ chôn vùi trong bùn trong thế giới của Hades, và họ buộc những người này phải thực hiện chuyện gánh nước bằng một cái sàng. Họ đem lại cho những người này tai tiếng xấu, trong khi họ vẫn còn sống. Và tất cả những hình phạt mà Glaucon đã đưa ra cho người công chính là những người được cho là bất công, họ đem ra cho những người không công chính. Nhưng họ không có gì khác thêm để nói.
Sau đó như thế là khen ngợi và khiển trách cho mỗi bên. Nhưng thêm nữa, Socrates, có một loại luận chứng về công lý và bất công cho ông xem xét - một loại được những cá nhân tư nhân và những nhà thơ sử dụng. Với cùng một giọng tất cả họ đều tụng bài thánh ca rằng công lý và điều độ không rượu chè những điều tốt lành, nhưng khó khăn và phiền hà, trong khi không điều độ và bất công là ngọt ngào và dễ dàng để có và chỉ trong tiếng tăm và quy ước là đáng xấu hổ. Họ cũng nói rằng những hành động bất công, đối với hầu hết phần đông, là có lợi nhuận cao hơn những công chính; và ngược lại trong khi mà họ hoàn toàn sẵn sàng dành tặng cho danh dự công cộng và cá nhân trên người xấu – miễn là họ có của cải và có những loại sức mạnh khác -  và tuyên bố rằng họ được hạnh phúc, họ làm ô danh và coi khinh không ra gì những ai là người xảy ra được trong dẫu bất kỳ cách nào là yếu hay nghèo, mặc dù họ thừa nhận rằng những người này tốt hơn nhiều so với những người kia.
Nhưng lạ lùng nhất trong tất cả là những giải thích mà họ đem cho những vị gót và đức hạnh, và làm thế nào mà những vị gót, cũng thế, đem gán những bất hạnh và một đời sống xấu cho nhiều người người tốt, và số phận đối nghịch với những người đối lập với họ. Những nhà tu đi xin ăn và những tiên tri đi đến cửa nhà của những người giàu và thuyết phục họ rằng, thông qua những hiến tế hy sinh và những niệm tụng thần chú, họ đã có được một sức mạnh gót ban cho: nếu người giàu có hoặc bất kỳ tổ tiên của ông ta đã phạm một bất công, họ có thể sửa chữa nó với những nghi lễ vui vẻ dễ chịu. Và nếu ông ta muốn làm tổn thương một kẻ thù, ông sẽ có thể gây tổn thưng một người công chính hay một người bất công cũng đều như nhau với một chi phí ít tốn kém, vì với phương tiện của phép thuật và bùa phép họ có thể thuyết phục những vị gót để làm những gì họ trả giá.
Và những nhà thơ được đưa ra như những nhân chứng cho tất cả những giải thích này. Một vài người tấu đàn harp trên sự dễ dàng của thói hư tật xấu, trên những nền tảng rằng,
Vô hạnh trong dư thừa thì dễ dàng để có,
Con đường thì êm trơn và bắt đầu ngay cạnh bạn,
Nhưng giữa chúng ta và đức hạnh, những vị gót đã buộc phải đổ-mồ-hôi.
và một con đường thì dài, gập gềnh, và dốc [13].  Những người khác trích dẫn Homer để gánh vai nhân chứng rằng những vị gót có thể bị con người ảnh hưởng, vì ông cũng thế, đã nói:
Ngay cả chính những vị gót có thể bị lay chuyển vì cầu nguyện.
Và với những hiến sinh và những lời khấn hứa êm dịu,
Hương trầm và rảy nước rượu, giống người xoay họ khỏi mục đích của họ,
Khi một kẻ nào đó đã phạm và bị tội lỗi [14].
Và họ trình bày một đám đông ồn ào của những quyển sách của Musaeus, và Orpheus – người là hậu duệ, họ tuyên bố, của Selene [15] và Muses [16] - mà trên đó họ dựng cơ sở cho những nghi lễ của họ. Và họ đã thuyết phục không chỉ những cá nhân, nhưng cả toàn thành phố, là có trong thực tế những xá tội và những tẩy rửa cho những hành động bất công. Với kẻ sống, bao gồm những nghi lễ hiến sinh và những trò chơi vui vẻ dễ chịu. Nhưng cũng có cũng nghi thức đặc biệt cho người chết. Những lễ kết nạp này, như họ gọi chúng, giải phóng con người khỏi những khổ ác ở thế giới bên kia, trong khi có những khủng khiếp đang chờ đợi những ai nếu đã không thực hiện những nghi lễ này [17].
Với rất nhiều những sự việc như loại này, Socrates thân mến của tôi, là nói về đức hạnh và sự đồi bại, và về như thế nào con người và những vị gót tôn vinh chúng, những tác dụng gì chúng ta cho rằng chúng có trên những linh hồn của những người trẻ tuổi? Tôi muốn nói những người có năng khiếu tự nhiên và có khả năng chuyển đổi, là nói như thế, từ một trong những tục ngữ này sang tục ngữ khác và thu thập từ chúng một ấn tượng về loại con người nào mà họ nên là, và cách nào là hay nhất để đi trên đường đời. Người ấy chắc chắn sẽ tự hỏi mình câu hỏi của Pindar: “có phải bằng công lý hay bằng thủ thuật gian dối mà tôi sẽ trèo được bức tường cao hơn”, và do đó, sống cuộc sống của tôi được bao quanh bởi những bảo vệ an toàn? Và ông ta sẽ trả lời: “Về phần những gì người ta nói, họ nói rằng không có lợi thế nào trong tư cách công chính của tôi nếu như tôi cũng không được nghĩ là công chính, trong khi đó những rắc rối và những hình phạt vì công chính là rõ ràng; nhưng những người bất công, người đã bảo đảm cho mình một danh tiếng về công chính, sống đời sống của một vị gót. Vì như, sau đó, “dư luận vượt qua sự thật bằng vũ lực”, và “điều khiển hạnh phúc”, như những người khôn ngoan nói, tôi chắc chắn phải hoàn toàn quay sang với nó [18]. Tôi nên tạo ra một bức tranh ảo tưởng của đạo đức xung quanh tôi để đánh lừa những ai là người đến gần, nhưng giữ sự tham lam và xảo quyệt loài cáo của vị khôn ngoan Archilochus đằng sau nó” [19].
“Nhưng chắc chắn,” một ai đó sẽ phản đối, “không phải là dễ dàng cho tà ác cứ mãi mãi ẩn dấu”. Chúng ta sẽ trả lời rằng không có gì lớn lao là dễ dàng cả. Và trong bất kỳ trường hợp nào, nếu chúng ta muốn hạnh phúc, chúng ta phải đi đến chỗ những dấu chân của những luận chứng dẫn đến. Để giữ không bị khám phá, chúng ta sẽ hình thành những hội bí mật và những club chính trị. Và có những giáo sư dạy về thuật thuyết phục làm chúng ta thông minh hơn trong việc đối phó với những hội đồng và những tòa án pháp luật. Vì vậy, phần bởi thuyết phục, phần bởi sức mạnh, chúng ta sẽ xoay sở để làm tốt hơn (dành nhiều hơn) [20] những người khác, mà không phải trả hình phạt.
“Nhưng chắc chắn chúng ta không thể ẩn trốn khỏi những vị gót hoặc chế ngự họ bằng vũ lực!” Vâng, nếu những vị gót không hiện hữu, hoặc họ không quan tâm với những công việc con người, tại sao chúng ta phải nên lo lắng tất cả về chuyện ẩn trốn họ? Về mặt khác, nếu họ có hiện hữu, và có quan tâm về chúng ta, chúng ta không biết gì về họ, ngoại trừ những gì chúng ta đã học được từ luật pháp và từ những nhà thơ là những người đã cung cấp những gia phả của họ. Nhưng đây là chính những người cho chúng ta biết rằng những vị gót có thể bị thuyết phục và bị ảnh hưởng bởi những lễ hiến sinh, bởi những lời cầu nguyện nhẹ nhàng, và những dâng cúng. Do đó, chúng ta hoặc tin họ về cả hai nội dung, hoặc không tin một nội dung nào cả. Nếu chúng ta tin họ, chúng ta cần phải là bất công và dâng cúng những lễ hiến sinh từ những hoa lợi chúng ta thu hoạch được từ sự bất công của chúng ta. Vì nếu như chúng ta công chính, lợi lộc duy nhất của chúng ta có được là không bị những vị gót trừng phạt, nhưng chúng ta sẽ bị mất những lợi nhuận từ sự bất công của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta không công chính, chúng ta sẽ nhận được những khoản lợi nhuận này, và sau đó chúng ta sẽ van nài những vị gót, và thuyết phục họ, trốn thoát khỏi những tội phạm và những tội lỗi của chúng ta không bị trừng phạt.
 “Nhưng trong thế giới của Hades, không phải là chúng ta sẽ phải trả hình phạt cho những tội phạm ở đây, hoặc do chính chúng ta hoặc qua những con cháu chúng ta?”  “Bạn tôi ơi”,  người trẻ tuổi sẽ nói như ông ta làm tính toán hợp lý của mình, “những nghi lễ huyền bí và những vị gót của sự xá tội có quyền năng rất lớn. Những thành phố lớn nhất kể cho chúng ta điều này, cũng như những con cái của những vị gót đã trở thành những nhà thơ của những vị gót và những nhà tiên tri, và tiết lộ điều đó nó là như thế”.
Trên cơ sở của luận chứng nào xa thêm nữa, sau đó, chúng ta có nên chọn công lý trên sự bất công lớn nhất? Vì nếu chúng ta có sự bất công như vậy với một mặt tiền giả dối, chúng ta sẽ làm như chúng ta có một ý định giữa những vị gót và con người, cả hai trong khi chúng ta đang sống và khi chúng ta đã chết, như cả đám đông quần chúng và kẻ lỗi lạc nổi tiếng tuyên bố. Vì vậy, với tất cả những gì đã nói, Socrates, phương sách nào có thể đem lại cho một người nào đó với bất cứ quyền lực nào – dù của não thức, sự giàu có, thể xác, hoặc gia đình -  để sẵn sàng làm dạng danh công lý, và không cười to khi nghe nó được ca ngợi?
Thật vậy, nếu bất cứ ai có thể cho thấy rằng những gì chúng ta đã nói là sai, và có kiến ​​thức đầy đủ rằng công lý là tốt nhất, những gì ông cảm thấy với người bất công sẽ không là sự tức giận, nhưng một mức  độ lớn của sự tha thứ. Cuối cùng tất cả, ông ta biết rằng ngoại trừ từ một ai đó có nhân cách giống-gót là người phẫn nộ khi làm sự bất công, hoặc một người nào đó đã thu được kiến ​​thức và tránh sự bất công vì lý do đó, không một ai là công chính tự nguyện. Thông qua sự hèn nhát, hay tuổi già, hoặc một vài những yếu đuối khác, người ta thực sự phản đối sự bất công. Nhưng nó là hiển nhiên rằng họ làm như vậy chỉ vì họ thiếu sưc mạnh để làm sự bất công. Vì kẻ đầu tiên trong đám họ nếu đạt được quyền lực đó là kẻ đầu tiên làm điều bất công nhiều như anh ta có thể làm được.
Và tất cả điều này không có nguyên nhân nào khác hơn là nguyên nhân đã dẫn đến toàn bộ luận chứng của Glaucon và của tôi với ông, Socrates. “Socrates, ông thật con người tuyệt vời”, chúng tôi đã nói, “những gì tất cả ông, là người tuyên xưng ca ngợi công lý, bắt đầu từ những anh hùng [21] sớm nhất của thời cổ xưa, những vị có lai lịch sống xót cho đến tận những người của ngày nay, không một ai đã từng bao giờ khiển trách sự bất công hoặc ca ngợi công lý, ngoại trừ đề cập đến những danh tiếng, những vinh dự, và những phần thưởng vốn là những hậu quả của chúng. Không một ai đã từng mô tả đầy đủ những gì mỗi một chúng tự thân làm, qua sức mạnh riêng của nó, bằng sự hiện diện của nó trong linh hồn của người sở hữu nó, ngay cả nếu như nó vẫn còn ẩn dấu với những vị gót và con người. Không một ai, dù trong thơ ca hoặc trong những thảo luận riêng tư, đã biện luận đầy đủ rằng bất công là xấu ác lớn nhất mà một linh hồn có thể có trong nó, và công lý là tốt lành vĩ đại nhất. Nếu ông tất cả đã nói theo cách này và đã cố gắng thuyết phục chúng tôi từ thời tuổi trẻ sớm nhất của chúng tôi, chúng tôi bây giờ sẽ không phải phòng vệ chống lại bất công từ người này với người kia khác, nhưng mỗi người sẽ là người phòng vệ tốt nhất của chính mình, vì sợ rằng bằng làm bất công, anh ta sẽ sống trong những điều kiện mật thiết với điều tồi tệ nhất có thể có”.
Điều đó, Socrates, và có lẽ có những điều khác thêm vào, là những gì Thrasymachus (hoặc có thể một người nào đó khác) có thể nói khi thảo luận về công lý và bất công - thô lỗ đảo ngược quyền lực của chúng. Nhưng tôi – vì tôi không có lý do nào để che giấu bất cứ điều gì từ ông -  muốn nghe điều ngược lại từ ông, và đó là lý do tại sao tôi nói chuyện với tất cả sức mạnh mà tôi có thể tập hợp được. Vì vậy, xin đừng chỉ đơn thuần là chứng minh cho chúng tôi bằng cách lập luận rằng công lý mạnh mẽ hơn bất công, nhưng nói cho chúng tôi biết những gì mỗi một tự thân nó làm, vì chính bản thân nó, với một người nào đó người sở hữu nó, khiến làm cho một là xấu và một kia là tốt. Hãy nghe theo lời khuyên của Glaucon và đừng đem những thanh danh tiếng tăm vào trong giải thích [22]. Vì nếu ông không tước bỏ từ công bằng và bất công ra khỏi danh tiếng thật sự của chúng, và đính kèm những danh tiếng không thực với chúng, chúng tôi sẽ nói rằng nó không phải là công lý ông đang ca ngợi, nhưng danh tiếng của nó; cũng không phải bất công mà ông đang lên án, nhưng danh tiếng của nó; và rằng ông đương khuyến khích chúng tôi là không công bằng, nhưng giữ nó trong bí mật. Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ nói rằng ông đồng ý với Thrasymachus rằng công lý là sự tốt lành của một người khác, lợi thế của kẻ mạnh mẽ hơn, trong khi sự bất công là lợi thế riêng và lợi nhuận riêng của một người, mặc dù không phải là lợi thế của người yếu hơn.
Ông đồng ý rằng công lý là một trong những sự tốt đẹp lớn lao nhất, những tốt lành vốn là đáng có vì ích lợi của chính những hậu quả của chúng, nhưng còn nhiều hơn thế nữa, vì lợi ích riêng của chúng – loại giống những sự việc như sự nhìn thấy, sự nghe được, sự hiểu biết, sự được khỏe mạnh, dĩ nhiên, và tất cả những sự việc khác vốn là những tốt lành nguyên gốc bởi bản chất, và không chỉ đơn giản bởi uy tín. Đây là những gì tôi muốn ông ca ngợi về công lý. Nó như thế nào nhỉ - vì chính tự thân của nó - đem lợi ích lại cho người sở hữu nó, và như thế nào sự bất công gây hại cho anh ta? Để lại những hậu quả và tiếng tăm cho những người khác họ khen ngợi.

Tôi có thể chịu đựng với những người khác khi ca ngợi công lý và chê trách bất công trong cách đó – khi tán dương những thanh danh tiếng tăm, và hậu quả của một bên và khi phỉ báng những điều đó của một bên khác. Nhưng tôi sẽ không chịu đựng với điều đó từ ông (trừ khi ông nhấn mạnh trên điều đó). Vì ông đã dành toàn bộ cuộc đời của ông điều tra điều này và không gì nào khác. Thế nên đừng chỉ đơn thuần chứng minh cho chúng tôi bằng luận chứng rằng công lý thì mạnh hơn là bất công, nhưng chỉ ra cho thấy tự thân mỗi chúng có tác động gì, vì chính tự thân nó, trên ai là người có nó - một người cho điều tốt, một người cho điều xấu, cho dù nó không biết có phải vẫn còn ẩn dấu từ những vị gót và loài người, hay không.

Giờ đây, tôi đã luôn luôn ngưỡng mộ những cá tính tự nhiên của Glaucon và Adeimantus, nhưng tôi đặc biệt hài lòng khi tôi nghe những gì họ đã phải nói trong dịp này, và tôi trả lời:


Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất
(Nov/2011)




[1] “a third form” – theo Bloom: ông dịch là một thể dạng thứ ba – và ông chú thích: [Đây là xuất hiện đầu tiên trong Republic, từ ngữ nổi tiếng của Plato – eidos – từ này đem lại tên gọi cho lý thuyết được biết như là “lý thuyết về ý tưởng hay thể dạng”; Giảng giải của Plato về những hữu thể cao nhất, hay đầu tiên. Ý nghĩa của giảng giải này đã luôn luôn từng là một đề tài tranh luận không ngã ngũ. Đây là một trường hợp khác, nơi có một cố gắng đi theo cách dùng từ này của Plato, đi từ ý nghĩa thông thường của nó để đi đến ý nghĩa lý thuyết cao nhất của nó là một điều kiện tiên quyết của sự học hỏi, bởi vì ý nghĩa cao nhất chỉ là sự tinh lọc của những gì đã tiềm ẩn trong cách dùng thông thường của từ.
Về gốc chữ, eidos lấy ra từ động từ “nhìn” và có nghĩa, đầu tiên, “dạng ngoài xuất hiện của một sự vật” – nhìn thấy nó như thế nào, những cá tính có thể nhìn thấy và phân biệt nó với những gì khác nó. Trong câu trên, nó có nghĩa là “một loại của sự vật”, một “lớp” (class); sự liên hệ giữa ý nghĩa này và ý nghĩa nói trên – thể dạng - thì hiển nhiên, từ thể dạng sẽ được dùng riêng để dịch eidos xuốt trong bản dịch này. – Bloom]

[2] doxa – dư luận: [Từ Greek doxa lấy từ một từ có nghĩa là “xem ra, xem như, hình như” - “to seem”. Đây là nghĩa cổ của từ “dư luận, ý kiến -”opinion” , như đối nghịch với từ “hiểu biết, kiến thức” - “knowledge”. Nghĩa của nó đôi ki kéo sang thành”có tiếng tăm” – “reputation”; vì doxa có nghĩa là những gì thường được tin tưởng bà dựa trên dạng ngoài xuất hiện hay những gì xem ra, xem như là những sự vật, hình như là những sự việc. Đố ngịch với thực chất, thực thể của nó. Thế nên, dú dư luận hay ý kiến không phải là những từ tự nó có ý nghĩa phê phán xấu, nhưng sự liên hệ của nó với “hình như”, “xem ra” khiến nó bị đặt thành vấn đề. Trong nội dung này, Glaucon và Adeimantus nhấn mạnh vào sự phân biệt giữa ý kiến, hình như và thực thể, và giữa một số ít những người tự mỉnh có khả năng thoát khỏi, không bị vướng mắc vì ý kiến hay dư luận, và nhiều những người khác vẫn còn không như thế vì không thể– Bloom]
[3] “do better” – xem chú thích trước.
[4] [Từ Greek của – “pháp luật” -”law” là “nomos”. Nó có thể được dịch là ‘ước định” (“convention”) Vì một luật hay lệ, không nhất tiết phải ban hành từ một hội đồng nhân dân, quốc hội, nó có thể là một thực hành theo tập quán truyền lại từ những đời trước cảu cha ông tổ tiên và dùng để hướng dẫn quản trị một cộng đồng. Trong ý nghĩa này, nomos có thể được hiểu như đối nghịch của physis, “thiên nhiên, hay tự nhiên.”) – Bloom]
[5] [chiếc nhẫn được kể là của chính Gyges, không phải tổ tiên của ông ta]
Gyges (680-652 TCN), vua xứ Lydia, ở vùng tây Anatolia (nay là Turkey), ông dựng nên triều đại Mermnad. Theo như nhiều những thư tịch cổ điển, Gyges lên ngôi vua sau khi giết chết vua Candaules và lấy vợ của ông này. Nhưng có nhiều dị bản khác nhau về chính biến cố này. Herodotus viết rằng Candaules, người đã kiêu hãnh bất thường về sắc đẹp vợ mình, buộc Gyges phải nhìn bà khỏa thân. Bà này bắt gặp Gyges rình rập nhìn trộm và buộc Gyges nếu không muốn chịu tội chết phải giết chồng bà là chính nhà vua. Chúng ta cũng có bản của Plato – kể trên.  Một bản thứ ba của Nicholas người thành Damascus, ông này dựa trên tài liệu của một sử gia Lydia là Xanthus, theo nguồn này – Gyges vốn là một sĩ quan, đã bị nghi ngờ làm phản hoàng gia, nên ông giết vua Candaules, sau khi hoàng hậu đã buộc tội ông có toan tính quyến rũ bà.
[6] Trong Seven against Thebes 592-4, được cho biết Amphiaraus nói rằng “ông không mong ước được tin là bậc nhất, nhưng là bậc nhất”. Đoạn này tiếp tục với những lời Glaucon trích dẫn dưới đây tại câu 362a-b.
[7] Xem Homer, Odyssey 16. 97-8.
[8] Hesiod (“Hσίοδος”, Hēsíodos); nhà thơ truyền khẩu Hylạp các học giả định niên đại khoảng 750-650 TCN.
[9] Homer (“Oμηρος”, Hómēros), tác giả hai tập sử thi  Iliad and the Odyssey, được tôn kính nhất trong các thi sĩ Hylạp viết anh hùng ca.
[10] [Hesiod, Works and Days 332-3.]a
[11] [Homer, Odyssey 19. 109.]
[12] Musaeus: bác học, nhà thơ, sử gia, nhạc sĩ, tu sĩ ... huyền thoại, được xem là người sáng lập lối thi ca của tu sĩ (priestly poetry) ở  Hylạp - Attica. [tên tuổi Musaeus gắn với tôn giáo huyền bí Orphism]
[13] [Hesiod, Works and Days 287-9, với thay đổi nhỏ.]
[14] [Iliad 9. 497-501, với thay đổi nhỏ]
[15] Selene: (Σεληνη-Selênê –Luna): vị gót nữ của mặt trăng – bà thường được vẽ như một phụ nữ hoặc trên lưng ngựa có cánh, hoặc một cỗ xe ngựa  do những ngựa có cánh kéo bay.
[16] Mousai (Muses - Μουσα): Những vị gót nữ của nhac, ca khúc, và múa, và là nguồn của hứng khởi cho các nhà thơ. Những muse cũng là những gót nữ của kiến thức, những người nhớ tất cả những gĩ đã xảy ra, đã thành qúa khứ.
[17] Orpheus: nhà thơ theo huyền thoại, cũng có danh là người sáng lập tín ngưỡng - Orphism - sùng bái vị gót Dionysus (Bacchus) - Orphism (đôi khi cũng gọi là Orphicism) – (“Oρφικά”). Plato, trên đây nhắc đến những nghi lễ kết nạp tôn giáo - “Orpheus-initiators” (Ὀρφεοτελεσταί), và những nghi lễ liên hệ, Cũng giống như những huyền bí Eleusinian (Eleusinian mysteries), sự kết nạp với hững huyền bí Orphic (Orphic mysteries) hứa hẹn tín đồ những ưu thắng trong thế giới bên kia.
[18] [trích dẫn được gán cho từ Simonides, người được Polemarchus trích dẫn trong quyển 1.]
[19] [illusionistic painting: bức tranh ảo tưởng - ]
[20] “outdo others” – Pleonektountes – xem chú thích quyển I.
[21] [Anh hùng thường là những thủ lĩnh quân đội nổi tiếng thời sơ cổ đại (thời trong thơ Homer). Họ được xem như thần linh vì họ là hậu duệ trực tiếp của những vị gót, và vì họ làm những chuyện đội đá vá trời, những kỳ công siêu nhân, siêu thế. Một số trong họ được kể là những người tạo dựng, sáng lập các thành phố lớn hay quốc gia. Các công dân của những thành phố đó – như thế có liên hệ với thần linh – vì là con cháu của những anh hùng, vốn là con cháu của thần linh – vậy các vị anh hùng đóng vai trò nối kết thành phố với những vị gót. -– Bloom]
[22] xem câu 361b-c.